Saturday 25 February 2012

“Rồi khi qua Giáo đường kiếm Chúa,”


Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 2 Mùa Chay năm B 04.03.2012

“Rồi khi qua Giáo đường kiếm Chúa,”
“Đội Thánh giá xin làm chiên ngoan
Thấy có đứa đuôi dài đầu sừng
Chúa cũng xót thương người lầm than.”
(Phạm Duy – Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ)
(Mt 19: 14)
 
Đúng thế không? Ca từ về “Cô em Bắc kỳ nho nhỏ”.
Thật vậy sao? Lời nghệ sĩ già ngoài Đạo nói đến Chúa đến Mẹ? Nói và hát những lời về “Cô em” Bắc hay Nam kỳ không còn nhỏ, nhưng vẫn nhún nhảy điệu Fox Trot ở diã nhạc Thuý Nga Paris 104?
Nhảy và hát, hoặc vừa hát vừa nhảy mỗi vũ điệu, rồi còn thêm:

                        “Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ,
                        Này cô em mắt trời bao dung.
                        Nhìn anh đi, hãy nhìn cho rõ,
                        Trước khi nhìn đám đông.
                        Trước khi vào đám đông.”
                        (Phạm Duy – bđd)

Kể cũng lạ. Những hát hò lò dò điệu vũ cũng anh anh/em em đấy chứ! Hát và nhảy điên cuồng như thế thì làm sao bảo “nhìn anh đi, hãy nhìn cho rõ”? Rồi lại nói: “Trước khi nhìn đám đông”, và: “Trước khi vào đám đông.” 

Kể cũng vui. Vui, vì thật sự ở đời, làm gì có ai “đi vào đám đông” hoặc cứ đắm nhìn đám đông rồi lại bảo: “nhìn anh đi, hãy nhìn cho rõ”, ngộ nhỡ em nhìn lộn/nhìn lạo người nào ở đám đông, thì sao?

Cũng vui thật và ngộ quá, là ngôn ngữ người đời. Chí ít, là ngữ ngôn người nghệ sĩ nói về đời người rồi lại hát:

                        “Đời chim muông nhánh khổ nguy nan,
                        Mà anh mang tội gốc chưa tan.
                        Cửa chùa nào mà không rộng mở,
                        Quỷ sứ nào chẳng muốn nương thân?”
                        (Phạm Duy – bđd)

Ôi thôi! là ý từ và ý tứ người nghệ sĩ cứ nói ra.
Thế đó! là tư tưởng của người đời về đời người và con người.   
Về đời người và người đời, người nghệ sĩ hay nhà văn hoá viết sao cho hết! Chí ít, là viết về những người em nhỏ, chưa hẳn là gái Bắc hay Nam kỳ! Nhất thứ, là nói và hát về các thiên thần nhỏ bé chưa biết nói, chỉ biết nhìn. Nhìn mẹ/nhìn cha, nhìn mọi người chứ không chỉ “nhìn anh đi, hãy nhìn cho rõ”, kẻo giả bộ nhìn lộn, thấy lầm. 

Về tầm nhìn, vừa qua bần đạo cũng đã nhìn nhưng không tỏ nên chưa rõ có bắt gặp được những người em thiên thần rất bé nhỏ lại dễ thương mà Đức Chúa Nhân Hiền Lòng Lành vẫn khuyên ta đến gần:

                        “Đức Giêsu nói:
Cứ để con trẻ đến gần Thầy,
đừng ngăn chúng,
vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.”
(Mt 19: 14)

            Bàn về đời người và người đời, nhiều vị đợi đến lúc mình đã chín chắn/trưởng thành rồi mới nghĩ suy và luận bàn. Hệt như ý kiến của một số cụ, được ghi như sau:

“Tác giả Bronnie Ware là một nhạc sĩ sáng tác kiêm y tá chăm nom người sắp chết, những bệnh nhân biết mình không qua được, không muốn chữa trị nữa và về nhà chờ ngày ra đi vĩnh viễn.
Dưới đây là 5 câu thường nghe do Cô Ware hiện viết thành một quyển sách mang tên “THE TOP FIVE REGRETS OF THE DYING,” nxb Balboa Press, có bán trên Amazon.com.: 

1. “Tôi ước gì tôi có đủ can đảm để sống cho mình, thay vì sống theo ước muốn của người khác.” Ðây là điều tiếc nuối lớn nhất, cô Ware nói. Khi sắp qua đời, nhìn lại, người ta mới thấy mình có những điều ước chưa bao giờ thực hiện. Hầu hết mọi người còn chưa thực hiện được một nửa điều mình muốn mà đã phải nhắm mắt ra đi và biết rằng đó là do chọn lựa của mình. Cô Ware nói: “Ðiều quan trọng là thỉnh thoảng phải thực hiện vài điều mình ước mơ. Ðến lúc mình bệnh thì đã trễ. Sức khỏe là điều kiện để thực hiện nhiều thứ, một khi mất rồi thì “đã trễ.” 
2. “Tôi ước gì tôi đừng đi làm nhiều quá như vậy.” Cô Ware nói hầu như bệnh nhân phái nam nào cũng nói vậy. Các ông ấy do quá quan tâm việc làm, đã lỡ mất thời thơ ấu hay thiếu niên của các con, lỡ mất tình bạn với người bạn đường. Phụ nữ cũng nuối tiếc như vậy nhưng ở thế hệ các bệnh nhân của cô Ware, số phụ nữ đi làm thường không nhiều. Còn đàn ông, thì “tất cả đều nuối tiếc vì đã bỏ phí quá nhiều phần cuộc đời mình cho cuộc chạy đua đường trường vì sự nghiệp.” 
3. “Tôi ước gì tôi có can đảm bày tỏ cảm xúc”. Nhiều người cố nén cảm xúc để không bị đụng chạm. Kết quả là cuộc đời của họ bị đè nén. Có người còn vì thế mà bị bệnh. 
4. “Tôi ước gì tôi giữ liên lạc được với bạn bè.” Nhiều người không thực sự biết giá trị của tình bạn cũ cho tới những tuần cuối đời và nhiều khi không còn kịp tìm lại bạn cũ nữa. Ðời sống bận bịu, ai cũng có lúc bỏ bê bè bạn. Nhưng, khi người ta biết mình sắp chết, thì việc trước tiên của mọi người là lo sắp xếp tài sản đâu ra đấy, và muốn giúp đỡ những người mà mình quan tâm. Nhưng, vì quá yếu, quá mệt, nên không thể làm được việc này. Ðến cuối đời, những gì còn lại chỉ là bạn bè và người thân là quan trọng. 
5. “Tôi ước gì tôi cho phép mình được hạnh phúc hơn”. Ðiều đáng ngạc nhiên là rất nhiều người nói lên điều này. Nhiều người phải đến lúc gần ra đi mới thấy là hạnh phúc là một chọn lựa. Nhiều người cứ sống và làm theo thói quen, để quên đi mất mình có quyền thay đổi mọi sự để tìm đến hạnh phúc. Ðến lúc nằm trên giường bệnh, nhiều người lúc đó mới thấy chuyện người khác nghĩ gì, chê bai gì, là chuyện không quan trọng gì hết. Họ chỉ muốn được vui, được cười, được hạnh phúc.” (Theo Vũ Quí Hạo Nhiên, Đến cuối đời có gì để tiếc.)  

            Bần đạo nghe chuyện, thấy đời con người cũng có điều đáng để ta suy nghĩ, không chỉ vào lúc gần chết, mà ngay khi còn sống. Suy và nghĩ về lối sống của bọn trẻ rất bé nhỏ, ta cần học. Học và hỏi vì biết rằng chuỗi ngày dài ta sống sẽ chẳng hấp dẫn nếu cứ để nó trôi qua đi, bao tháng ngày trống rỗng, không biết học. Học và hỏi, không chỉ từ người lớn tuổi, mà cả từ em bé, rất măng trẻ.

            Nhưng vấn đề là: học được gì ở trẻ bé nằm đó chỉ nhìn ngó, rồi cười. Và, trẻ bé chỉ vung tay vung chân, “nhìn anh cho kỹ” rồi cười với hết mọi người. Nhưng trong ánh nhìn đó, nơi nụ cười này, bé em đã gửi đến mọi người một đề nghị, để học. Đó là những chiêu thức nhẹ rất “nhu thắng cương”, như: sống cho hiện tại, không sống vì quá khứ, cũng chẳng quá lo cho tương lai, mai ngày. 

Sống, là sống chân thật, không thêu thùa/diêm dúa. Vẫn chân chất/chân phương, một bản lĩnh. Những là cảm tạ, biết ơn hết mọi người đã và đang đồng hành với bé. Cảm kích/biết ơn không chỉ bằng ngôn từ. Nhưng, bằng cử chỉ mũm mĩm. Bằng, tiếng cười nấc khi người khác chọc quê, cù lét hay làm trò. 

Quả cũng đúng. Cuộc đời người cần nhiều trò để mọi người và mình được cười nắc nẻ cho vui, nhất thứ là khi mình chỉ muốn khóc thét vì thực chất của động thái, mình gặp phải. Phải chăng như thế là “Nước Trời”? Có phải như thế là cuộc sống của trẻ em, cần đến gần?

Điều mà người lớn cần học nơi con trẻ không chỉ là “hãy nhìn”, “cứ nhìn” và “nên nhìn” cho rõ “có phải là anh hay không”. Mà là: “hãy cười”, “cứ cười” và “nên cười” cho vui hơn. Cười ngất hoặc nắc nẻ, đều được. Hoặc, cười thầm không thành tiếng, cũng chẳng sao. Cười, là bởi vì có làm gì cho lắm, thì đời mình vẫn như thế. Và, không hơn thế. Cười xong rồi cứ thế mà chạy nhảy/vui chơi cho thoả thích. Cứ chạy nhảy. Cứ nói cười líu lo, chẳng lo toan chuyện gì cho thêm mệt. Thế đó là “Nước Trời” ở trần gian, rất không sai.

Nước Trời là của những ai giống như con trẻ”, nói như nghệ sĩ ngoài đời là sẽ nói như:

                        “Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ,
                        Này cô em có nụ cười ngây thơ.
                        Thành khi không quãng đường im gió,
                        Không gió lấy gì lang thang.
                        Cô có thương thầm anh không?”
                        (Phạm Duy – bđd)

Thì ra, nghệ sĩ nhà ta đã tìm ra bí kíp của cuộc sống, ở Nước Trời. Cuộc sống trong đó, có nhiều người vẫn cứ hỏi: “Cô/em có thương thầm anh không?”  Tại sao lại thương thầm? Mà, không phải là thương “sôi nổi”, om sòm, rộn rã? Thương thầm, như thế có phải là thái độ của trẻ nhỏ? Của, “Nước Trời, là của những ai giống như chúng”? Hỏi đây, tức phần nào đã trả lời rồi, phải thế không hỡi bạn và hỡi tôi, ở đâu đó?

Thế nhưng, vấn đề mọi người đều nhận thấy hôm nay, đó là: làm sao sống được như trẻ nhỏ, một khi các gia đình ở “Nước Trời” trần gian vẫn cứ tìm đến những chuyện tréo cẳng ngỗng, chẳng giống ai? Tréo cẳng ngỗng ở chỗ: không còn muốn lấy vợ lấy chồng. Hoặc, cứ đòi lập gia đình với người cùng phái tính, thế mới sai.

Cách đây không lâu, Cơ quan nghiên cứu tự gọi là Pew Research Center ở Mỹ đã thực hiện một phân tách để nghiên cứu về dữ liệu thống kê cho biết con số đám cưới ở Hoa kỳ xem ra đang tụt dốc, khoảng 5% giữa năm 2009 đến 2010, dù lý do của suy giảm này phần lớn là vì suy thoái kinh tế. 

Qua nghiên cứu tỷ lệ những vị có gia đình ở tuổi trên 18 (còn gọi là nhóm 18+) thì con số những người này đã giảm sút từ 72% vào năm 1960 nay xuống còn 51% thôi. Cụ thể hơn, bản tường trình từ khảo sát thống kê cho thấy rõ:  

“Tại Hoa Kỳ, việc giảm sút nói trên đều xảy đến với mọi nhóm tuổi, không trừ một ai, nhưng với người trẻ, thì tình trạng suy giảm đạt mức báo động, rất thê thảm. Ngày nay, mỗi 20% số người trưởng thành ở độ tuổi từ 18 đến 29 có gia đình so với với 50% thấy có vào thập niên 1960. Suốt 5 thập niên vừa qua, tuổi tác trung bình của những người lần đầu tiên lập gia đình nay tăng khoảng 6 tuổi cho cả nam lẫn nữ.
Cho đến nay, tình trạng người trẻ đạt tuổi trưởng thành nay chẳng thiết tha chuyện vợ chồng hoặc chần chừ không nghĩ đến nó nữa không, cũng không rõ. Duy, có điều là lắm lúc gần như phân nửa người trưởng thành ở Mỹ, và có lúc còn lên cao đến 72% từng lập gia đình ít nhất một lần trong đời. Tuy nhiên, con số những người như thế đang từ 85% vào năm 1960 nay giảm sút rất đáng kể.” (x. Carolyn Monihan, Only 51 per cent of Americans are married, MercatorNet 17/12/2011)

            Các nhà nghiên cứu khảo sát như Giáo sư Brad Wilcox có cho khán giả đài ABC News biết con số những người làm đám cưới đang giảm sút là do có sự gia tăng chung sống giữa người trẻ nam nữ đã ra trường. Điều đó gây hậu quả trên con cái. Và, Giáo sư B Wilcox có nói thêm, như sau:

“Với người Mỹ, lấy vợ gả chồng và trở thành cha mẹ là hai chuyện khác nhau. Đối với họ, ưu tiên chính là làm cha mẹ đã, sau đó mới tính chuyện thành công trong hôn nhân. Phần đông người trẻ hôm nay tách bạch hai chuyện rất rõ rệt. Trong khi đó, thì nhiều năm về trước, mọi người đều liên kết hai việc chung làm một.
Cuối cùng thì, chính trẻ nhỏ mới là những kẻ chịu thiệt thòi về sự bất ổn cũng như gặp nhiều khó khăn hơn do bởi người lớn nay ít muốn lập gia đình và/hoặc cứ ở mãi trong tình trạng có gia đình.” (x. Carolyn Monihan, bđd)

            Xem thế thì, cố gắng tính chuyện có gia đình để sống như trẻ nhỏ hầu như đã trở thành chuyện không tưởng, hoặc lui về dĩ vãng, cũng rất xa. Càng xa hơn, nếu như chuyện hôn nhân giữa người cùng phái tính dần dà trở nên hiện thực, bất kể sự đối kháng của Hội thánh hoặc của các chính trị gia còn tinh thần đạo hạnh. Đến lúc đó, có trẻ nhỏ ở với mình đã là chuyện khó. Huống hồ, sống như trẻ nhỏ, làm sao có! Cái khó là ở chỗ đó. 

            Cuối cùng, người người rồi ra cũng chẳng biết thế giới này sẽ đi về đâu. Còn chăng lương tâm con người. Hoặc, nói theo kiểu văn hoa/thi tứ, thì: người ơi, còn đó nỗi buồn.

            Buồn hơn, khi giới trẻ hôm nay mở băng/diã Thuý Nga Paris 104 ra nghe mà chả hiểu câu hát:             

                                    “Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ,
                                    Này cô em tóc demi-garc,on,
                                    Chiều hôm nay xuống đường đón gió,
                                    Cô có tình cờ, nhìn thấy anh không?”
                                    (Phạm Duy – bđd)

            Trẻ không hiểu thế nào là tóc “demi garc,on”. Cũng chẳng biết, tại sao cô em “Chiều hôm nay xuống đường đón gió”,  mà lại hỏi: “Cô có tình cờ, nhìn thấy anh không?”  Sao lại “tình cờ”? Việc gì phải hỏi: “Nhìn thấy anh không” để làm gì? Hoặc: cô có nhìn, như trẻ bé mới sơ sinh cứ dương mắt ra mà nhìn. Nhìn, nhưng không hỏi người lớn: có thấy bé không? Có cười với bé hoặc như bé em không? Bởi, khi ấy bé em sẽ nhắn bảo: cứ nhìn và cười đi! Rồi ra khi khôn lớn quý vị sẽ không còn thấy ánh nhìn và nụ cười của bé đây. Như truyện kể bên dưới và minh hoạ, chứng minh và xác chứng, dù chỉ để cho vui:

            “6 tuần đầu ...
6 tháng sau ... và
... 6 năm sau ...
Hãy đọc để biết tình yêu trong tương lai ! 
1. Lời yêu thương:
-Sau 6 tuần: Anh yêu em.
-Sau 6 tháng: Tất nhiên là anh yêu em.
-Sau 6 năm: Nếu không yêu, tôi cưới cô làm gì ?
2. Khi đi làm về:
-Sau 6 tuần: Em yêu, anh về rồi.
-Sau 6 tháng: Đã về.
-Sau 6 năm: Nấu bữa tối chưa ?
3. Quà tặng:
-Sau 6 tuần: Em yêu, hy vọng em sẽ thích sợi dây chuyền này.
-Sau 6 tháng: Anh mua một bức tranh, anh nghĩ treo nó ngoài phòng khách thì rất hợp.
-Sau 6 năm: Lương đây, muốn mua gì thì tự đi mà mua.
4. Điện thoại đổ chuông:
-Sau 6 tuần: Em ơi, có người muốn nói chuyện với em này.
-Sau 6 tháng: Điện thoại của em đấy.
-Sau 6 năm: Nghe điện thoại đi .
5. Nấu nướng:
-Sau 6 tuần: Anh chưa bao giờ được ăn món nào ngon hơn thế.
-Sau 6 tháng: Em nấu món gì cho bữa tối thế?
-Sau 6 năm: Lại là món này à?
6. Lời xin lỗi:
-Sau 6 tuần: Em yêu, đừng lo, anh thề không bao giờ tái phạm.
-Sau 6 tháng: Được rồi, anh hứa.
- Sau 6 năm: Biết rồi, nói nhiều thế.
7. Quần áo mới:
-Sau 6 tuần: Trông em như thiên thần trong bộ đồ này.
-Sau 6 tháng: Em lại mua quần áo mới à?
-Sau 6 năm: Suốt ngày quần với áo.
8. Lập kế hoạch cho kỳ nghỉ:
-Sau 6 tuần: Mình sẽ đi nghỉ vài ngày ở nơi nào đó em thích.
-Sau 6 tuần: Đi nơi nào đó vừa gần vừa rẻ.
-Sau 6 năm : Du lịch làm gì, ở nhà thì có chết ai đâu
9. Cai tivi:
-Sau 6 tuần: Chúng mình xem phim gì tối nay?
-Sau 6 tháng: Anh thích phim này hơn.
-Sau 6 năm: Để kênh này xem bóng đá đi. Em không thích thì cứ ngủ sớm.
10. Chiếc gường:
-Sau 6 tuần: Chúng mình cưa bỏ nửa chiếc giường đi em ạ.
-Sau 6 tháng: Chiếc giường này vừa đủ em ạ.
-Sau 6 năm: Anh ra ngoài nằm cho thoáng.
11 Đi xe máy:
-Sau 6 tuần: Khiếp, giữa anh và em ngồi thêm được 1 người nữa đấy.
-Sau 6 tháng: Mình mua chiếc SH cho đủ chổ ngồi em ạ.
-Sau 6 năm: Mỗi người đi một xe cho nó tiện.
12. Nhà:
-Sau 6 tuần: Chúng mình cần một phòng là đủ.
-Sau 6 tháng: Mình nên tìm mua nhà có 4 phòng.
-Sau 6 năm: Ta nên có hai cái nhà, phòng khi mình cãi nhau.
13. Con cái:
-Sau 6 tuần: Có bầu chưa em.
-Sau 6 tháng: Còn 4 tháng nữa anh làm bố rồi!
-Sau 6 năm: Đi thử ADN.
14. Tiền bạc:
-Sau 6 tuần: Tiền của anh là của em.
-Sau 6 tháng: Em phải để cho anh ít tiền tiêu vặt chứ!
-Sau 6 năm: A! Anh dám lập qũi đen à!
15. Nghe em nói:
-Sau 6 tuần: Không nghe em nói anh nhớ lắm.
-Sau 6 tháng: Anh biết rồi!
-Sau 6 năm: Em im lặng một lúc không được sao.
16. Đi siêu thị :
-Sau 6 tuần: Ở cạnh em là anh vui rồi.
-Sau 6 tháng: Mua nhanh nhanh rồi về
-Sau 6 năm: Em đi một mình được rồi.
17. Trang sức:
-Sau 6 tuần: Để anh mua cho em đôi hoa tai cho đủ bộ.
-Sau 6 tháng: Mua làm gì nhiều hả em.
-Sau 6 năm: Cứ đeo mấy cái thứ ấy, cướp nó giật cho … có gì thì đừng bảo tui đi nuôi.
18. Ủi đồ:
-Sau 6 tuần: Em ủi lúc nào nhanh thế.
-Sau 6 tháng: Còn cái này chưa ủi này.
-Sau 6 năm: Chờ cô ủi có mà ở trần đi làm.
19. Nghe vợ nói:
-Sau 6 tuần: giọng em cứ líu ríu như chim hót ấy, anh nghe cả đời không chán.
-Sau 6 tháng: Nói ít thôi cho anh còn xem bóng đá.
-Sau 6 năm: Sao cứ quàng quạc như vịt suốt ngày thế nhỉ, không biết mệt à!
20. Sang đường:
-Sau 6 tuần: Từ từ em, để anh dắt sang đường nào, xe cộ thế này nguy hiểm lắm.
-Sau 6 tháng: Nhìn vào mà sang đường.
-Sau 6 năm: Làm gì mà dò dẫm như thế, chết làm sao được mà sợ.
21. Ăn đêm:
-Sau 6 tuần: Em có đói không, em thích ăn gì, anh chạy ù ra ngoài phố mua về cho.
-Sau 6 tháng: Vừa ăn tối xong giờ này đã đói rồi à, lấy tạm gói sữa mà uống đi.
-Sau 6 năm: Ăn gì mà ăn lắm thế, người ngợm thì béo ú lên rồi kia kìa.
22. Trang điểm:
-Sau 6 tuần: Em trang điểm nhẹ nhàng nhưng rất ấn tượng, anh rất tự hào khi đi bên cạnh em.
-Sau 6 tháng: Thôi, không trang điểm có chết ai đâu nào.
-Sau 6 năm: Son son với chả phấn phấn, mất thời gian. Có định đi không thì bảo!
23. Món ăn:
-Sau 6 tuần: Món ăn có vị hơi lạ nhưng là sản phẩm của chính tay em làm nên thật tuyệt vời.
-Sau 6 tháng: Em xem bố trí thời gian đi học nấu ăn đi.
-Sau 6 năm: Nấu ăn thế này thì ai mà nuốt nổi hả trời, vợ với chả con.
24. Du lịch:
-Sau 6 tuần: Anh sẽ đưa em đi khắp thế gian này.
-Sau 6 tháng: Ở nhà thôi, đi một chuyến cũng mất toi mấy tháng lương.
-Sau 6 năm: Du lịch du liếc gì , năm nào cũng đi chưa chán à!
25. Uống café:
-sau 6 tuần: Em nhớ lần đầu mình đi uống café với nhau không, anh thích lúc như thế này.
-sau 6 tháng: mình mới đi tuần trước rồi mà.
-sau 6 năm: Ra đấy làm cái gì, xem tivi còn có lý hơn.
26. Mua đồ cho con:
-sau 6 tuần bé sinh: phải tự tay anh chọn anh mới yên tâm.
-bé được 6 tháng: bộ nào cũng được.
-bé sáu tuổi: có bộ đồ mà cũng không biết mua cho con, thế mà cũng làm mẹ.
27. Mua quà cho bố mẹ vợ:
-sau 6 tuần: Anh biết tính bố mẹ lắm , cứ để anh mua.
-sau 6 tháng: em xem bố mẹ cần gì thì mua.
-sau 6 năm : Ông bà già rồi, có cần đâu mà mua.
28. Sau giờ làm:
-sau 6 tuần: để anh đón em về luôn, tối mình cùng đi ăn tối.
-sau 6 tháng: Em về nấu cơm trước, anh xong việc về ngay.
-sau 6 năm: Em cứ ăn cơm trước, anh nhậu với bạn rồi.
29. Đọc báo:
-Sau 6 tuần: anh thấy mấy quyển báo, truyện này hay quá nên mua cho em đọc.
-Sau 6 tháng: mục vui cười này hay quá (cả 2 vừa đọc vừa cười khúc khích).
-Sau 6 năm: anh ơi mục ĐBGB trên web trẻ thơ có bài này hay lắm em đọc cho anh nghe nhé
-Úi xời, em đọc đi anh đang buồn ngủ.
30. Chép bài báo cho chồng đọc:
-Sau 6 tuần: Đâu đâu, cũng hay đấy chứ em, để anh đọc rồi rút kinh nghiệm.
-Sau 6 tháng: Cứ từ từ để đấy. lúc nào rảnh anh xem.
-Sau 6 năm: Rách việc, không có việc gì làm nữa hay sao?
32. Vợ thân hình hơi tròn trịa, luôn hỏi chồng một câu hỏi: Em có béo không anh?
-Sau 6 tuần: Không, nhìn em phúc hậu.
-Sau 6 tháng: Không!
-Sau 6 năm: Nhiều mỡ quá, ngấy lắm!”
(trích: “Chuyện vui trên mạng” bạn bè gửi vẫn rất nhiều)

Nhiều cốt truyện được người viết ra để ta cười, nhưng cũng khó. Bởi, đó vẫn là chuyện có thực, xảy đến với muôn người. Chí ít, là người chẳng cần biết việc Chúa khuyên dạy: ta nên sống như trẻ nhỏ. Hoặc, người chỉ mỗi quan tâm đến vi tính, kinh doanh, công việc. Ngoài chuyện ấy ra, tất cả đều là thứ yếu, rất không cần. Chẳng chú ý. Thế mới chết. Thế mới mệt, cả đời bé em. Nho nhỏ. Rất Bắc kỳ.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng ít khi tự hỏi:
nên chăng sống giống trẻ nhỏ
như Chúa dạy?
Bởi cứ là hay quên.


Saturday 18 February 2012

“Ngàn mây xám, chiều nay về đây treo lững lờ,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần Thứ 1 Mùa Chay năm B 26.02.2012

“Ngàn mây xám, chiều nay về đây treo lững lờ,”
“Và tiếng hát, về ru mình trong giấc ngủ vùi,,
Rồi từ đó, loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền,
để người về hát đêm hồng, địa đàng còn in dấu chân bước quên.”
(Trịnh Công Sơn – Dấu Chân Địa Đàng)

(Kn 18: 14-15)

            “Địa đàng in dấu chân”, nơi nào thế? Phải chăng là: “đêm hồng”, là “bước quên”, hay “giấc ngủ vùi”? Thật ra thì, nghệ sĩ là những vị từng “ru với gió”, “mơ theo trăng”, và “vơ vẩn cùng mây”, làm sao định vị được địa đàng, tìm dấu chân.

            Bần đạo đây, cũng đã cảm nghiệm được điều ấy, những hai lần. Lần đầu, là lần quyết tâm về “miền quá khứ”, có người cháu gọi bằng cậu từng 50 năm chôn vùi đời mình chốn viện tu rất khắc kỷ, ở “Castagniers” miền Nam nước Pháp. Lần đó, bần đạo cứ là bon chen tìm đến với núi rừng trùng điệp với hy vọng xa vắng chốn miền có dấu chân “địa đàng”, nhưng không được. Bởi, lúc nào cũng văng vẳng nghe bên tai lời ca vui tựa hồ lời nghệ sĩ đang còn hát:

                                    “Trời buông gió, và mây về ngang bên lưng đèo,
                                    Mùa xanh lá, loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.
                                    Cuộc đời đó, nửa đêm tiếng ca như than phiền
                                    Bàng hoàng lạc gió mây miền,
                                    Trùng trùng, ngoài khơi nước lên sóng niềm.”
                                    (Trịnh Công Sơn – bđd)

Lần thứ hai, bần đạo lại cũng tìm về miến dĩ vãng chốn khổ tu khi trước, ở vùng sâu vùng xa, rất gần Machu Pichu, xứ Pê-ru. Và lần này, bần đạo cũng lại bị quật thê thảm đến độ toàn thân mình trở thành gần như hư vô/rỗng tuếch, cả đầu óc lẫn con người. Có ở tâm trạng ấy, mới thấy những gì gắn liền đời mình vẫn chẳng là gì cả. Chỉ là hư luống.

Hôm nay, ngồi “một mình trên phố” lố nhố chốn phồn hoa đô hội, lại thấy cần sự tĩnh mịch/lặng thinh, nhưng nay thấy hiếm. Cũng may còn có cái gì đó tựa ơn trên gửi đến cho mình vài ba tư tưởng nhỏ, rất thoáng chốc, giống lời thơ người nghệ sĩ vẫn ray rứt:

                        “Ngựa buông vó người đi chùng chân đã bao lần
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng
Vùng u tồi loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng
Một đời bỏ ngõ đêm hồng
Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

            Nhà thơ đây, những là “chùng chân”, ”buông vó” vì đêm đó nghe như “lời ca dạ lan ngại ngùng”. Còn bần đạo đâu dám làm thế, chỉ là bạn bè thấy mà thương bèn tặng cho một bài suy tư có dáng dấp của đấng bậc tải trên báo, có lời lẽ về những “lặng thinh là tình đã thuận”, bận bịu như sau:

“Lặng thinh, không chỉ là việc cần có trong thánh lễ, hoặc các buổi phụng vụ thôi, nhưng cả với cuộc đời nữa. Cuộc sống hôm nay chừng như quá ồn ào, kích bốc. Nhìn vào mọi chốn, người người đều thấy nơi nào cũng lào xảo đủ thứ tiếng động. Thanh âm đủ loại chừng như cứ nối tiếp và nối tiếp không ngừng từ các loa phóng thanh cứ ra rả từ các đài phát sóng, cho đến các loại máy ghi âm tân kỳ phát ra đủ mọi loại âm thanh, cùng tiếng nhạc. Cả khi người ta đang tập trung lái xe hay làm việc quần quật, hoặc ngủ nghỉ, lúc nào cũng thấy toàn những âm thanh và tiếng động. Khủng khiếp hơn, ngày hôm nay, các màn ảnh phát hình và vi tính chiếm đoạt gần như trọn vẹn thời gian trong cuộc sống của nhiều người. Thậm chí, cả vào lúc gia đình tụ họp để ăn uống, bên nhau chuyện trò hoặc nguyện cầu, lại vẫn thấy tình huống sôi động, rất dễ nóng bỏng.

Vâng. Ngày nay người người cần đến thinh lặng. Cần lặng thinh để suy tư, nghĩ ngợi, hiệp thông với Chúa. Nhận ra được sự hiện diện của Đức Chúa. Có lẽ, hơn bao giờ hết, con người cần đến sức mạnh của nội tâm, điều mà sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từng minh định:

“Nhu cầu đời sống nội tâm là tất cả những gì ta cần đến, cho cuộc sống. Bởi, cuộc sống hôm nay, có nhiều thứ khiến con người mình dễ chia trí và ra khỏi mọi động thái suy tư tụng niệm, tự kiểm hoặc xem xét tình trạng an nhiên tự tại, của chính mình.” (x. GLHTCG chưong đoạn 1779)

Chính vì lý do đó, có lẽ cũng nên nhìn ra sự cần thiết để ra khỏi cảnh trí ồn ào nói trên thỉnh thoảng cũng nên tắt máy phát thanh, nghe nhạc trên dĩa hoặc ipod nhét nơi tai. Để rồi, thay vì bị phóng pháo bằng tiếng động, là những dụng cụ khiến con người trở nên thụ động, tê cứng, để mà tìm kiếm những giây phút hoặc kế hoạch chuyện trò với Chúa, qua nguyện cầu. Đó, là thế giới khác hẳn. Thế giới của an bình, lặng thinh. Rồi tự hỏi: sao tôi cứ phải lệ thuộc vào với máy móc, đến là thế…” (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 15/1/2012 tr. 10)

            Bần đạo đây, chẳng là đấng bậc hoặc thày sáu cao siêu vời vợi để dám đề nghị với chúng nhân anh em, mà chỉ dám đưa ra một nhận định cho riêng mình, ấy là: có lặng thinh mới thấy và nghe được điều Chúa nói với con người, thời đại này. Thấy, là thấy Chúa vẫy gọi mọi người hãy đến với Ngài. Nghe, là nghe lời thầm thì của lặng thinh Chúa nói nhỏ. 

            Khi xưa, môn đồ gần cận luôn thấy Chúa làm việc trong âm thầm, lặng thinh. Lặng thinh trong nguyện cầu. Thinh lặng khi chữa lành và ban ơn. Và nhiều nữa, kể sao cho hết. Ngày nay, Chúa vẫn còn khuyến cáo con rất nhiều thứ, dù họ không là đồ đệ chẳng tin vào Ngài, cả những hiện tượng ồn ào như thác lũ. Hiện tượng xảy đến với nhân gian, không chỉ cho người ngoài Đạo, mà cả đến dân con của Ngài nữa.

            Hôm nay, phiếm luận chuyện Đạo xen lẫn chuyện đời, bần đạo thấy có bổn phận phải mở mắt cho to, vểnh tai cho rộng để thấy và nghe được tiếng lào xào của lặng thinh, lình bình nơi góc xó. Tiếng lào xào của thinh lặng nay không chỉ xảy ra nơi con trẻ, ở trời Tây, mà nhiều địa hạt khác, như: thi ca, âm nhạc, hội hoạ, y tế, giáo dục, và nhiều thứ khác, nói chung nơi cuộc sống thực tiễn. 

            Cuộc sống hôm nay, ngoài những thông tin rất “loạn” (hiểu theo nghĩa tiêu cực, bóng bảy) còn thấy xảy ra hiện tượng người người chạy trốn, thoát rất xa khỏi chốn miền thiên nhiên, triền miên im ắng. Cả và thiên nhiên hôm nay, lại cũng bị con người dính tay vào để tàn phá, chỉnh sửa hoặc bố ráp theo ý mình. Ý của người vẫn sử dụng tiền tài/của cải mà khuynh loát.

            Nói cách khác, những ai bận tâm lo lắng chuyện như thế, nay cảm nghiệm thêm lời người nghệ sĩ xưa vẫn còn hát:

                                    “Tiếng ca bắt nguồn từ đất khô
                                    Từ mưa gió, từ vào trong đá xưa,
                                    Đến bây giờ, mắt đã mù,
                                    Tóc xanh đen vầng trán thơ,
                                    Dòng sông đó, loài rong yên ngủ sâu,
                                    Mới hôm nào bão trên đầu,
                                    Lời ca đau trên cao.”
                                    (Trịnh Công Sơn – bđd)

            Phải chăng, tiếng lào xào của lặng thinh ở đâu đó, là “lời ca đau trên cao”? Phải chăng, chỉ những ai biết được sự lặng thinh/im ắng mới cảm nhận được những ồn ào của lặng câm, ở mọi chốn? Lời ca trên cao và tiếng ồn ào lặng câm ấy, không phải ai cũng cảm và cũng thấy, nhất là chuyện lào xào nghe rất “phiếm” như chuyện bên lề một điện thư/thư điện trên mạng mà bần đạo mới nhận từ bạn bè thân thương, như sau:

“Cảm ơn anh em đã gửi cho bọn này bài viết có "lời lẽ rất phá hoại". Phá cả Đạo lẫn đời. Đúng là “lời lẽ phá hoại” của những người rảnh rỗi không có việc gì làm, hoặc có chủ đích phá Đạo, hoặc được trả tiền để làm việc ấy.
Tôi không theo dõi loạt bài về "Cánh Chung luận" qua lại giữa Gm Nguyễn Văn Khảm và những người "ăn theo" hoặc "nói dựa", vì đâu hiểu gì vấn đề hóc búa là "Cánh Chung", làm sao luận.
Tôi nghĩ, mình cũng nên để tâm hồn lắng đọng mà đi vào thinh lặng, sẽ nghe và thấy nhiều, rồi hãy suy tư tản mạn chuyện "Lặng thinh" luôn thấy cần. Mấy hôm nay, đầu óc bọn tôi cứ rong chơi đâu đó, nên khó viết. Cầu mong mọi sự trở về với lặng thinh, bình dị để người người cảm nhận được sự im ắng của thiên nhiên, vạn vật, cuộc đời.
Cầu chúc anh em và mọi người vẫn cứ bình an sau khi đọc các bài viết mang tính "phá thối" ở trên mạng hay đâu đó, vẫn lền khên xoá không kịp.”

            Và sau đó, một thư hồi âm từ bạn tri âm có tâm hồn cũng tri kỷ, lại rất kỹ như:

“Mong rằng Anh sẽ lắng nghe được "TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY" để cảm nhận và nghe được nội âm vang lừng của TÌNH YÊU THƯƠNG, để viết cho mọi người, không trừ một ai, cả những kẻ có ngôn từ phá hoại nữa.” (trích điện thư qua lại của bạn bè trong nhóm thư từ rất điện tử hôm 03/02/2012)

            Với người đời, tiếng lào xào của lặng câm/im như hến, đến là thế. Đến như thế hoặc rặt như vậy vẫn cứ ào ào, khiến con người càng đi dần vào cuộc cãi tranh, giành giựt, tranh chấp. Tranh và chấp, cả khi có sự việc mà mình không tài nào nắm bắt, như chuyện “Cánh chung luận” của ai đó vẫn còn đó. Tranh và chấp, cả khi các thứ ấy không là “của bở” ăn được/uống được, mà vẫn chỉ lặng câm/im ắng, rất miên trường. 

            Với nhà Đạo, nỗi lắng đọng của lặng thinh mang ý nghĩa một mời gọi ở kinh sách Thánh Hiền đề cập gọi mời mọi người hãy để ý:

                                    “Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng,
lúc đêm trường chừng như điểm canh ba,
thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài
đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường
xông vào giữa miền đất bị tru diệt,
mang theo bản án không thể huỷ của Ngài
như lưỡi gươm sắc bén. “  
                                    (Khôn ngoan 18: 14-15)

            Và, Lời của Chúa còn đó rất buồn như sau:

                                    “Còn anh em, khi cầu nguyện,
hãy vào phòng, đóng cửa lại,
và cầu nguyện cùng Cha của anh,
Đấng hiện diện cả nơi kín ẩn.”
                                    (Mt 6: 6)

            Thiết tưởng, “Nơi kín ẩn” mà thánh sử nói đến, hẳn là chốn miền đầy ắp những lặng thinh, tình thông thoáng. Có lắng đọng hiệp thông, chung sống với thiên nhiên vạn vật, hoặc con người. Im ắng ấy, chắc không là tranh chấp, cãi tranh, giành giựt như ngôn sứ Habacúc từng khẳng định:

                                    “Và Giavê, ngự trong thánh điện của Người ,
 toàn thể cõi đất, hãy thinh lặng trước nhan Người!”
(Ha 2: 20)

            Trên thực tế, nhiều “thánh điện của Chúa” vẫn trưng bảng chỉ dẫn “Nơi này, Nhà của Chúa” để nhắn nhủ dân con bước vào đó, hãy cứ lặng thinh, im ắng, nguyện cầu. Còn ngoài đời, làm sao tìm được chốn nguyện cầu im ắng, giống như thế? Vũ trụ vạn vật vẫn còn đó, đón chờ loài người hãy cùng chim muông, thú vật, đến mà xem. Xem rồi, hãy hoà mình mà lắng đọng trong thinh lặng. Và khi đã lặng thinh/im ắng rồi sẽ phát hiện tình huống rất dễ thương, như truyện kể ở bên dưới:

“Nhà hiền triết nọ dẫn học trò đi ngao du khắp chốn trên đời. Trong mười năm, thày trò theo nhau đi hầu hết các nước, gặp hầu như tất cả những người có học vấn. Nay, thày trò trở về, người nào người nấy kinh luân đầy một bụng. Kinh nghiệm đầy mình.

Trước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên bãi cỏ ở ngoại thành, nói với học trò: “Mười năm ngao du, các con đều trở thành kẻ sĩ học rộng hiểu nhiều. Nay, sự học sắp kết thúc, ta sẽ giảng cho các con bài học cuối.”

Học trò kéo đến vây quanh nhà hiền triết. Một lát sau, bậc thày hỏi:
-Hiện chúng ta đang ngồi ở đâu thế?
-Dạ thưa, ta đang ngồi nơi bãi cỏ hoang ngoài thành.
-Trên bãi hoang này, có cây gì mọc lên không?
-Dạ, Bãi hoang này, mọc toàn cỏ dại.”  
-Đúng! Nơi đây mọc toàn cỏ dại. Giờ ta muốn biết có cách gì để trừ nó không?

Đám học trò thi nhau đáp:
-Dạ. Chỉ cần một xẻng là đi hết.
-Dạ thưa thày, dùng lửa để diệt cỏ, cung là phương cách rất hay!
-Thưa thày, theo em, rắc vôi lên là tốt nhất.
-Theo em, diệt cỏ phải trừ tận gốc. Chỉ cần nhổ được hết thứ đó là xong!

                                    Nghe vậy, nhà hiền triết đứng dậy nói:
-Bài học hôm nay, đến đây là hết. Các con hãy đi về, làm theo cách suy nghĩ của mình mà diệt cỏ. Nếu không được, năm sau quay lại ta nói chuyện tiếp.

Năm sau, thày trò quay lại, ai cũng thấy cỏ hoang hôm trước nay trở thành đồng lúa ngô xanh tươi. Đám học trò quây quần bên đám ruộng, chờ thày đến, nhưng chờ mãi vẫn không thấy thày. Ít năm sau, nhà hiền triết quá vãng, đám học trò cũ của ông mới lại tìm đến nhau để tu sửa các tài liệu cùng luận thuyết của thày mình, chợt thấy ở chương cuối, ông có ghi thêm một câu: “Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ một cách hay nhất, là trồng cấy mùa màng ở trên đó. Cũng vậy, muốn cho bãi cỏ nhà mình không còn lo buồn chuyện ồn ào/huyên náo, cách duy nhất là đem vào đó, sự lặng thinh tuyệt đối, mới được.”

            Học thuyết của nhà hiền triết, có thể chỉ áp dụng trên giấy bút, thôi. Thực tế ở đời, người người nên ứng dụng sự lặng thinh cho riêng mình, rồi sẽ thấy. Thấy và đạt, chỉ khi nào ta quyết tâm sống bền bỉ, không nôn nóng. Đó mới là điểm son vàng của cái-gọi-là “lặng thinh là tình đã thuận.” Thuận, trong an vui. Hiền hoà. Lặng lẽ. 

            Trần Ngọc Mười Hai
            Tuy chưa đạt
tình trạng an và vui ấy.
            Nhưng đã cảm nghiệm
về quỵ ngã,
            những hai lần.