Saturday 28 July 2012

“Ta yêu em trong giấc mơ này,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 18 thường niên năm B 05.8.2012

“Ta yêu em trong giấc mơ này,”
“Ta yêu em trong những cơn say.
Một trời ân ái mình hãy sống,
buông lơi thời gian.”
(Trịnh Nam Sơn – Về Đây Em)
(1Ga 4: 7-8 )
Về đây Em”, phải chăng để anh có thể nói tiếng “Yêu Em trong giấc mơ này”, mà thôi không? Hoặc, bảo: “Ta yêu em trong những cơn say” và nhắn: “hãy sống buông lơi thời gian” để rồi sẽ thấy “một trời ái ân mình hãy sống”? Ôi chao là nghệ thuật! Nghệ thuật sống và yêu, đâu chỉ mỗi đàn/hát, trong giấc mơ! Dù, giấc mơ đó có là mơ về người em nghe văng vẳng nhiều điệu hát, rất như sau:

            “Và mùa đông lạnh lùng buốt giá
Nỗi cô đơn riêng mình ta
Và mùa đông một trời trắng xóa
Cho tâm tư năm tháng ngày qua
Đời còn nhiều nhung nhớ
Cho dù tình mình đã lỡ
Vẫn mong cho bóng người quay về.”
(Trịnh Nam Sơn – bđd)

Quả có thế. “Tình mình () đã lỡ”, “nỗi cô đơn (dù chỉ) riêng mình ta”, và “mùa đông (dù có) lạnh buốt giá”, thì “Đời (vẫn) còn nhiều nhung nhớ” tháng ngày qua. Nhớ, động thái của nhà Đạo, hôm nào. Bởi vẫn nhớ, nên nhà Đạo bọn tôi, hôm nay, lại “xục xạo” chốn nhạc và thơ, và cứ hát:

“Về đây em tìm về quá khứ,
Đã cho đôi ta mộng mơ.
Về đây em một trời như thơ,
Sẽ cho ta những kỷ niệm xưa.
Tình còn nhiều tha thiết,
Và đời một màu xanh biếc.
Chắc em không nỡ lòng ra đi.”
(Trịnh Nam Sơn – bđd)

Hát thế rồi, bần đạo nay mời bạn mời tôi, ta về suy tư cuộc đời của ai đó, có những lời như sau:

“Là nghị phụ tham dự Công Đồng Vatican II và đã viết “Hiến Chế Mục Vụ Hội thánh trong Thế giới Hiện đại”, các Giám mục thời ấy tuyên bố sẽ hỗ trợ “niềm hân hoan hưng phấn cùng những ưu tư/trăn trở của anh chị em sống ở thời này.” Một trong những ưu tư đáng kể ở thời này, là quyết tâm thực hiện quyền hạn cũng như cách đối xử với bậc nữ lưu ngang bằng nam giới. Và, một số nghị phụ vào dạo hôm đó cũng nói lên quan ngại của các ngài mà bảo rằng: “Dù họ chưa đạt được ước nguyện ngang bằng nam giới, nữ lưu ngày nay vẫn muốn đòi cho được quyền lợi đồng đều với nam nhân trên bình diện pháp luật cũng như thực tại. Và hôm nay, lần đầu tiên trong lịch sử, mọi người đều xác tín rằng lợi ích văn hoá phải được triển khai cho mọi người.”
Tháng Mười 2012 này, Giáo hội mừng kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công Đồng Vatican II khá đậm nét. Lúc đó chẳng vị nữ lưu nào được chính thức tham dự thời khắc thông thoáng rất hiếm có của Giáo hội. Nếu có chăng, cũng chỉ vài ba vị được dự thính với tư cách quan sát viên trong buôi toạ đàm kỳ nhì, mà thôi. Giả như mai ngày Hội thánh lại sẽ mở thêm một Công Đồng Vatican thứ 3 nữa, có thể chức sắc của ta cũng chẳng đưa thêm vai trò định đoạt nào cho nữ giới, giống như trước. Từ Công Đồng Vatican II đến nay, bậc nữ lưu ở khắp nơi đã bước những bước dài khổng lồ thuộc nhiều địa hạt ở thế trần. Trong Đạo, lại có Giáo hội từng phong cho các chị làm linh mục và/hoặc giám mục dù có nhiều thành viên giáo hội ấy từng chống đối những ngoại lệ như thế. Trong khi đó, các chức vụ hành pháp của Giáo hội Công giáo La Mã vẫn cứ nằm gọn trong tay nam giới, mà thôi. Dù ta có lập trường mạnh thế nào đi nữa trong việc tấn phong phụ nữ làm linh mục hay giám mục, thì chức sắc nắm quyền trong Giáo hội vẫn viện dẫn mục đích tối thượng là “đẹp lòng Chúa”, nên mọi vụ việc vẫn cứ phải dành để cho nam nhân, bất luận vì lý do nào.
Ngược giòng lịch sử, hẳn ai cũng thấy là đấng bậc nhà Đạo mình thường viện dẫn lý do bảo rằng Chúa ban toàn quyền cho nam giới hơn hẳn nữ giới, nên chuyện loại trừ bậc nữ lưu khỏi chức linh mục hoặc giám mục vẫn được ráo riết biện hộ. Gặp trường hợp cần giải thích, các đấng bậc cầm quyền trong Đạo đều bay biến đi đâu hết. Nên, hôm nay, Giáo hội lại cứ tiếp tục khuyên răn dân con mọi người hãy noi gương Chúa Kitô khi Ngài chỉ chọn mỗi nam nhân làm môn đồ vì họ giống Ngài về mặt hình hài thể xác. Và, chỉ mỗi nam giới mới có thể hành xử như Chúa, thôi. Dĩ nhiên, đấng bậc nam nhân trong Giáo hội bao giờ cũng thắng thế, và cho mình có lý. Đồng thời, những ai sống trong loại hình xã hội có nam nhân vẫn còn khuynh đảo hết mọi chuyện thì dĩ nhiên là các ngài không thể đề cao sự khác biệt về giới tính, để rồi tạo cơ hội đồng đều cho các vị không là nam nhân. Và Giáo hội Công giáo La Mã vẫn viện cớ này để loại trừ sự chuẩn thuận cho phép nữ giới có được chức vụ then chốt trong giáo triều. Chính vì thế, sự việc này từng gây ra trạng huống khó xử cho giới cầm quyền trong Đạo, nhất là khi gặp phải vấn đề có liên quan đến nữ giới.
Mới đây, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin vừa bác bỏ tư cách của Hội Đồng Đề Cao Quyền Lãnh Đạo của Nữ Tu, dựa vào lý do “đức tin” nói ở trên, nên đã khơi mào một số vấn đề quen thuộc gây khó khăn cho Giáo hội. Được biết, các nữ tu người Mỹ từng hỗ trợ Hội Đồng lại là những vị lâu nay vẫn chăm lo cho người nghèo hèn, bệnh tật, tù nhân và những người sống vất vưởng bên lề xã hội. Tiếp theo hành xử do từ Thánh Bộ này, Hội Đồng Đề Cao Quyền Lãnh Đạo của Nữ Tu chỉ là người thừa hành thuộc cấp ở dưới quyền chỉ bảo của Đức Tổng Giám Mục Giáo phận Seattle là Gm Peter Sartain, đặc biệt là Thánh Bộ đã áp đảo chút quyền bính mà nhóm này từng có. Nội qui của nhóm này sẽ được viết lại và phát ngôn viên buổi họp của nhóm sẽ được xem xét kỹ lưỡng. Các nữ tu của nhóm đặc biệt bị quở trách vì dám tỏ đối kháng chống lại quyền bính do các Giám mục người Mỹ nắm giữ và đã dám “làm thinh” trước giáo huấn của Hội thánh về việc phong chức linh mục và chuyện hôn nhân của người đồng phái tính. Phải chăng thinh lặng nay đã trở thành cung cách để phản đối? Phải chăng các nữ tu nay cũng không được phép cả đến việc định đoạt thứ tự ưu tiên cho công cuộc thừa tác của các chị nữa?
Chủ trương phụ nữ đòi đồng quyền với nam giới nay đã gây ảnh hưởng lên nhóm trên và đa số các nữ tu có thể đã bất đồng với lập trường của Giáo hội về việc cho phép nữ giới làm linh mục, hoặc giám mục. Nhưng ngày nay, những gì mà nhóm trên đang làm xem ra khá khôn khéo và tế nhị ở chỗ phụ nữ nay thực hiện nhiều sinh hoạt mục vụ cũng như giảng giải bằng hành động còn hay hơn phần lớn giáo sĩ và giáo phẩm thực hiện chỉ bằng lời. Hội Đồng Đề Cao Quyền Lãnh Đạo của Nữ Tu, cũng giống như chính Giáo hội, là một nhóm thành viên đa năng đa dạng, và Thánh Bộ Đức Tin không có chứng cứ để kết tội rằng nhóm của các chị đang chịu ảnh hưởng của phong trào phụ nữ đòi đồng quyền đến triệt để. Có thể nói là nhóm của các chị hiện cũng đang gặp cùng một thách thức như các giám mục nhưng các chị xem ra “đạt” kết quả hơn nhờ duy trì tính cộng đoàn có liên kết, nhờ biết trao đổi và đối thoại, và nhất là các chị đang được khuyến khích đổi mới, có sáng tạo và dám chấp nhận mọi nguy hiểm khi phục vụ Tin Mừng của Chúa.
Chắc chắn là hành động của Thánh Bộ Đức Tin đang gặp thiên tai về mục vụ. Một ví dụ khác có thể quay về mà qui chiếu là giáo triều của ta nay đang hành động theo cung cách thiếu khôn ngoan và phản tác dụng. Người Công giáo phải hỗ trợ cho cố gắng của các giám mục trong việc duy trì và triển khai các nguyên tắc cơ bản của niềm tin và sửa đổi những sai sót về tín lý coi đó như thành phần của tiến trình mà Bộ thực thi. Thế nhưng phải chăng các giám mục trên hành động hữu hiệu hơn trong công tác ấy không nếu các ngài không làm rối ren nỗi bất đồng về chính sách đưa ra cho công chúng khi có bất đồng về tín điều, và nếu kinh nghiệm và phán đoán của nữ giới có vị trí từng được trân trọng cũng như từng có vai trò quyết định trong việc quản trị của Hội thánh không? Đó mới là vấn đề.” (x. The Editors, Rome & women religious, www.Commonwealmagazine.org 18/5/2012)

            Thật ra thì, về lại nhà Đạo để suy tư chuyện Đạo nhà mình, không có nghĩa “vạch áo cho người xem lưng” những dấu vết của một thử thách rất đáng gờm, thời hiện tại. Nhưng, cũng chỉ để bọn tôi suy tư thêm về những gì được thánh nhân hiền lành từng căn dặn bằng thư từ rất tình thân, như:                          
                             
 “Anh em thân mến,
ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
(1Ga 4: 7-8)

            Thánh nhân hiền lành ở nhà Đạo cũng từng nêu lên nhiều thách đó xảy đến với dân con Đạo mình. Để rồi, cuối cùng ngài nhấn mạnh nhiều đến tình yêu, thứ mà nghệ sĩ ngoài đời, cũng từng tuyên dương qua câu ca, và tiếng hát, rất như sau:

“Ta yêu em trong giấc mơ này
            Ta yêu em trong những cơn say
Một trời ân ái mình hãy sống
buông lơi thời gian
Ta bên nhau quên hết u sầu
Vui bên nhau cho hết đêm thâu
Tình yêu sẽ mang ta đến gần bên nhau. “
(Trịnh Nam Sơn – bđd)

Bần đạo đây, có trích dẫn đôi điều cũng chỉ để nói lên tâm trạng rất đồng dạng và “đồng thuyền” với người anh người chị ở thánh Hội. Đồng dạng và đồng thuyền, không chỉ mỗi tâm tư, tâm tình mà cả phần tâm linh nữa. Nói tâm linh, là nói về nội tâm tư linh-đạo của người nhà Đạo xưa rày theo chân Chúa. Trong đó, có cả nam lẫn nữ, rất chí tình. Nói về tâm tư linh đạo của các bậc trưởng thượng khi xưa theo Chúa, còn phải và cũng nên nói thêm về các thừa-tác-viên được đề cao danh tánh ở Tin Mừng, như đấng bậc nữ lưu tên gọi là Joanna, được trích dẫn ở Tin Mừng thánh Luca hồi trước. Nói về Joanna, còn là nói như đấng bậc thày dạy ở Úc cũng từng viết và nói, rất như sau:

“Tin Mừng thánh Luca, có một truyện kể về nữ phụ không nêu danh tánh đã vào nhà ông Simôn người Biệt Phái, trong lúc Chúa đang dùng bữa tại đây. Nhìn thấy bà, ông Simôn đã tự hỏi: Đức Giêsu hẳn Ngài cũng biết bà kia thuộc loại nữ phụ nào mới dám đổ dầu xức chân Chúa. Bởi, ‘ai’ cũng biết bà này là ai và đối xử với bà như phường ‘tội lỗi’, chứ? Bà có ‘tiếng tăm khá xấu trong làng’... Đọc kỹ Tin Mừng, hẳn ta cũng đoán được bà ta là ai. Có thể là, thánh Luca cũng đã nêu tên bà trong Tin Mừng, ngay sau truyện kể ấy? Thật ra, nhiều người nghe biết rất ít về bà. Vì thế, ở đây cũng nên vẽ lên hình ảnh về bà cho công bằng. Hình ảnh lấy từ các nguồn sử sách ngoài Thánh Kinh.
Ta thừa biết Joanna xuất xứ từ một gia đình khá giả ở Do thái. Bà sinh sống và lớn lên trong một lâu đài nhỏ trên đồi Galilê. Vào tuổi dậy thì, gia đình đã sắp xếp gả bà cho một nam nhân thuộc giòng dõi quý tộc có tên là Chuza có họ với công chúa Nabatêna, người được lọt vào mắt xanh của Hêrôđê Antipas. Chuza trở thành bộ trưởng tài chánh trong chính phủ của Antipas. Do lấy Joanna làm vợ, ông cũng chiều lòng bà mà theo đạo người Do thái. Nhưng thật khó biết là ông hành đạo tốt lành như thế nào trong thời gian phục vụ trong chính quyền của Hêrôđê. Là vợ chồng có đám cưới, cả Chuza lẫn Joanna đều chung sống tại Tibêriát và có cơ ngơi ở Galilê nữa. Joanna cũng có của hồi môn do cha ruột để lại như tục lệ định đoạt. Chính vì thế, nên bà đã sử dụng của cải riêng không thuộc chồng mình cho việc thiện. Và bà cũng được san sẻ vị thế giai cấp cao, cũng như tài sản chung của chồng nữa.
Đức Giêsu thực sự vẫn muốn mọi chuyện minh bạch không dính dự đến Tibêriá, nhưng Ngài vẫn được người trong làng coi là đấng bậc chuyên chữa lành và có tài trừ quỷ. Mẹ ruột của Mahahen, là bạn và cố vấn riêng của Hêrôđê Antipas là người cũng sống tại đây, vào thời này. Và, theo một số truyền thống không mang tính qui điển sử liệu thì Đức Giêsu đã chữa cho bà sống lại, tại một vùng ở phía Bắc Tibêriát. Lúc đó, bà Joanna cũng đau bịnh thuộc loại nào đó nên đã đến với Chúa để được chữa lành. Gặp Chúa và được Ngài chữa lành, bà đã thay đổi cả cuộc đời. Bà khám phá ra Ngài còn hơn cả Đấng chữa lành tật bệnh nữa. Ngang qua Ngài, bà còn khám phá ra Vương Quốc của Chúa; và từ đó kết hiệp mọi sự bằng sự liên kết chặt chẽ, không kỳ thị bất cứ một ai, đặc biệt còn chăm lo cho người nghèo hèn, cùng khổ. Và từ đó, bà còn tiến xa hơn nữa để trở thành đồ đệ của Ngài. Điều này có nghĩa: bà từ bỏ vị thế cũng như tài sản của bà để theo Chúa đi khắp mọi nơi. Là nữ phụ Do thái, có thể là bà đã bố thí của cải mà bà có cho người nghèo. Bà cũng đóng góp tài sản cùng tiền bạc của riêng bà cho nhóm đồ đệ theo chân Chúa. Xem thế thì, bà không chỉ đổi thay cả con người để về với nhóm đồ đệ của Chúa thôi, và nhóm của Chúa cũng chấp nhận bà nữa. Bởi thế nên, có lúc nhiều người vẫn cứ nghĩ bà là kẻ “tội lỗi” vì dám phản bội giai cấp quý tộc bỏ cả cuộc sống sung túc khá cao cấp chỉ vì người nghèo, cho người nghèo hèn. Bà cũng từng thuộc vai vế trên cao, có địa vị trong chính quyền La Mã, nên vẫn bị người Do thái coi là kẻ “tội lỗi” chăng? Hoặc, bà nổi tiếng với mọi người trong vùng về chuyện bà làm hay sao? Phải chăng “mọi người” vẫn gọi bà là kẻ có tội chỉ vì dám làm khác mọi người?...” (x. Kevin O’Shea, Contemporary Variations in the Study of the Historical Jesus, Australian Catholic University 27/8/2011)

Trích và dẫn hôm nay, bần đạo dám kèm thêm câu hỏi có từ lâu, cũng khá khó, là: phải chăng giáo dân thuộc nữ giới xưa nay vẫn bị và được coi là giáo dân hạng thứ, hoặc dưới trướng? Dù, các vị có là nữ tu từng có công với Giáo hội như Joanna ở trên, là nữ thừa tác viên cận kề Chúa rất nhiều năm, đường trường rong ruổi một sứ vụ truyền giáo, ở muôn lối?
Trích và dẫn, như mọi lần, bần đạo bầy tôi chỉ muốn đưa vấn đề như một thông tin để người đọc cảm thông mà suy nghĩ. Suy rồi, lại sẽ cùng bần đạo đi vào “vườn hoa” Hội thánh mà thưởng lãm cả những hoa/lá/cành dù gai góc.
Trích và dẫn, còn để trình thêm với người đọc cùng bà con một vài trăn trở, đôi lúc cũng khó thở khi suy nghĩ nhiều về hiện trạng của nhiều thành viên trong thánh hội, rất hội thánh. Suy và nghĩ, mỗi khi có vấn đề mất ngủ hoặc ngủ không yên vì các câu nói hoặc vấn đề của ai đó, vẫn đưa ra. Chí ít, là vấn đề do bậc thày mình đặt ra cho học trò suy tư bàn cãi, mà không cần tìm đến giải đáp. Suy và nghĩ, có khi cũng chỉ là lang thang trong vườn hoa tư tưởng hoặc truyện kể để tìm gặp đôi ba giòng chảy, cho đỡ chán. Thế thôi.
Vừa rồi, trong lúc suy tư tìm đề tài để viết, bần đạo lại nhận được đôi ba chi tiết do người anh em trong Dòng gửi cho để suy nghĩ thấy cũng nên kể ra đây để bạn đọc hoặc bạn “không-chịu-đọc” biết mà sẻ san một tâm tình. Tâm tình ấy như thế này:

“Tranh chấp hầu như vẫn tiếp tục cả sau khi Vatican ra lệnh “khoá miệng” hai linh mục Dòng Chúa Cứu Thế ở Châu Âu là Lm Tony Flannery và Lm Gerard Moloney, vẫn cứ gia tăng. Một linh mục dòng thánh Âu Tinh có viết về “sự chia rẽ dễ thấy” trong Giáo hội Công giáo. Đó là thần học gia linh mục Gabriel Daly có nói: “Một phe đang nắm quyền kiểm soát đưa ra quan điểm/lập trường của riêng họ rồi coi đó như “giáo huấn của Hội thánh.” Linh mục Daly còn nói thêm: “Hơn thế nữa, các thành viên hay liến thoắng thường hay sa thải và đuổi cổ những người có ý kiến khác mình và coi họ như giáo dân “à la carte” tức những người như mất trí sống trong giáo hội đa dạng về luật pháp.” Linh mục Tony Flannery là người sáng lập Hiệp hội Linh mục Công giáo, đã viết nhiều bài quan điểm trên tờ “Reality”, một nguyệt san của Dòng Chúa Cứu Thế bị đình bản theo lệnh của Vatican trong khi đó Lm Gerard Moloney là chủ bút của tờ này cũng được khuyến cáo không nên viết về một số đề tài. Cả hai linh mục Dòng này đều có lập trường thông thoáng về các vấn đề như: Ngừa thai, Đời độc thân và phụ nữ làm linh mục. Lm Daly từng viết về đề tài này trên tập san Doctrine Life…”(trích thư luân lưu nội bộ DCCT 10/12)    
     
Nghĩ thế rồi, bần đạo bèn tìm đến chuyện kể, để minh hoạ như sau:

“Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ.
Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa".
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém).
Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học tập của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều đọc được. Cô giáo phụ trách lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp".
                        Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn.
Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xạm màu mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa trong chai lên cổ tay. Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa".
Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, là đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy nay là học trò cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em".
Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em".
Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời".
Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường được dành cho mẹ chú rể.
Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất.
Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ".
Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu:
"Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chỉ biết thế nào là dạy học kể từ khi cô được gặp em".

            Thật ra thì truyện kể hôm nay chẳng có gì để minh hoạ với đề tài mà bạn và tôi, ta bàn đến. Nhưng, có điều là: người kể lại cứ muốn nối kết với đề tài bằng một nhận định bảo rằng: xin đừng vội khinh chê những ý kiến/tư tưởng của người khác với mình, cũng đừng vội có thành kiến, “đóng khung” những gì mình chợ nghe/chợt thấy. Cũng đừng đánh giá người khác qua giới tính hoặc giai cấp của họ. Dù, họ là học trò, hoặc học để làm trò cho vui, trong cuộc đời.
Cuộc đời của nhiều người có nhiều sự/nhiều việc cũng rất ư là “tréo cẳng ngỗng” cứ bắt đấng bậc thày/cô phải suy nghĩ rồi giải quyết. Chí ít, là những sự/những việc có liên quan đến cuộc đời của con người rất lành và khá thánh, nhưng suy nghĩ khác mình.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Vẫn suy tư chuyện người
            để rồi nghĩ đến chuyện mình.
            Chuyện của Giáo hội mình,
            mỗi thế thôi.

Saturday 21 July 2012

“Khóc mà chi, yêu thương qua rồi,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 17 thường niên năm B 29.7.2012

“Khóc mà chi, yêu thương qua rồi,”
“Than mà chi, có ngăn được xót xa.
“Tiếc mà chi, những phút bên người,
“Thương mà chi, nhắc chi chuyện đã qua.”
(Hoàng Nguyên – Cho Người Tình Lỡ)
(Êp 4: 18-25)
            Viết “cho người tình lỡ”, mà lại bảo: “Thương mà chi, nhắc chi chuyện đã qua”, kể ra cũng khó. Khó nói và khó viết. Khó, là bởi người đọc hoặc người nghe vẫn thấy “yêu thương qua rồi”, “những phút bên người”, nay thành “chuyện đã qua.
            Viết cho người đời, đi Đạo ở thánh hội, cũng có tình huống tưởng như “chuyện đã qua”, nhưng thực tế đâu đã dễ. Trong đời đi Đạo sống rất đạo hạnh, lại có những chuyện “hơi giông giống” sự việc tưởng chừng đã qua, đây rồi cũng quên. Nhưng, đâu ngờ chuyện ấy, người xưa vẫn cứ trở về trong ký ức rất khó phai, nhiều cảm nghiệm như chuyện thấy nơi “Bản Tin Giáo xứ” trời Tây, hôm ấy như sau:

“Tháng ngày qua, ai trong chúng ta hầu như cũng hơn một lần tiếp xúc đủ mọi truyền thông đại chúng, tựa hồ: hội thoại ba chiều, điện đàm có hình ảnh, hoặc “điện thư phát tiếng”. Vì, đây là thành phần không thể thiếu trong cuộc sống đương đại. Nhiều lúc, ta không thể nào bỏ qua được tình huống vật vã khi giao tiếp với người ở đầu giây bên kia điện thọai, cứ hét cho to những điều vẫn nói đi rồi lại nói lại trong điện đàm. Cuộc sống hiện giờ là thế đó.
Cứ tưởng tượng, vào một ngày đẹp trời nào đó, Chúa cài đặt  “điện thư phát tiếng” vào hệ thống giao lưu Thiên đường, chẳng biết sự việc rồi sẽ ra sao? Như, chuyện: đang tập trung nguyện cầu lại nghe có tiếng từ đâu đó, cứ bảo nhỏ:
“Cảm ơn con đã gọi. Ta là Thân Phụ của Chúa. Con hãy nhấn một trong các số sau đây:
-Muốn xin điều gì, con nhấn số “1”.
-Muốn nói lời cảm tạ, con nhấn số 2.
-Nếu cần tả oán/than phiền một ai, con nhấn số “3”.
-Về chuyện gì khác, hãy nhấn số “4” cho Cha.
Đơn giản, chỉ mỗi thế”.
Có trường hợp, Chúa hành xử còn theo lối xã giao thông thường, như:
Xin lỗi con, Cha đang bận giải quyết đôi chuyện cho người anh em của con, bên đó. Tuy thế, lời cầu của con rất cần với Cha, nên hãy cứ chờ, Cha sẽ trở lại nói với con trong giây phút”... Gặp như thế, ta hành xử ra sao?
Có trường hợp còn tệ hơn, khi điện đàm mà lại thấy có lời nhắn, đối đáp thế này:
“Vi tính của Cha cho thấy: con đã cầu nguyện như thế đến 3 lần suốt hôm nay. Gác máy đi con rồi trở lại gặp Cha mai mốt nhé” ...
hoặc “Văn phòng của Cha hôm nay đóng cửa vì là ngày Sabát, con cứ trở lại mà đến với Cha lúc “Không” giờ vào thứ Hai tuần tới, nhé. Hoặc, có chuyện gì khẩn cấp cần giải quyết, con cứ đến gặp Linh mục Chánh xứ, hoặc thầy I-mam hoặc các Thượng tế trong vùng, cũng được!”
Ở đây, trường hợp nào cũng là gọi-đáp. Vào thời trước, chuyện này vẫn xảy đến trong giấc mộng. Nay, lại đến bằng kỹ thuật truyền thông, vi tính.“ (x. Lm Richard Leonard sj, Suy niệm Chúa Nhật 12 thường niên năm B, www.giadinhanphong.blogspot.com 24/6/2012)

            Vi tính/ vi mô, hay vi gì đi nữa thì người đời hễ đụng chuyện, là cứ ca và cứ hát những lời rằng:

“Anh giờ đây như là chim
Rã rời cánh biết bay phương trời nào
Em giờ đây như cành hoa
Trót tả tơi đón đưa ngọn gió nào.”
(Hoàng Nguyên – bđd)

“Anh giờ đây”, như chim rã cánh. “Em giờ này”, như hoa tả tơi đón ngọn gió. Ngọn gió hay vẫy chào bầy chim bay phương nao, là tâm trạng của nghệ sĩ ngoài đời, nay cứ hát. Nhà Đạo lúc này cũng có tâm trạng hệt như thế. Và, như thể chim loài, gió ngọn vẫn chào vẫn đón hết mọi người ở mười phương/tám hướng, rất thân quen. Những phương và hướng, cứ dồn dập chuyện “chẳng đặng đừng” khiến người người phải suy tư/nghĩ ngợi, thấy cũng ngại. Ngại nhất, là chuyện thời thượng xảy đến, bấy lâu nay.
Chuyện lâu nay, hôm này, còn là chuyện xảy đến để ta bàn thêm cho rõ. Rõ như ban ngày, là chuyện thế này:

“Thập niên ’60 ở Hoa Kỳ, điều dễ thấy như ban ngày, là thế này: cứ 100 người Mỹ sống ở đời thường, thì có đến 80 người đều đã hoặc đang có vợ. Thế nhưng, thống kê mới đây cho thấy, con số ấy này hiện suy giảm chỉ còn 52% thôi. Đó là con số thấp nhất trong năm 2009. Tìm hiểu lý do dẫn đến chuyện như thế, nhiều người thấy lý do là vì số người ly dị ở Mỹ nay lên rất cao. Thêm vào đó, người ta lại đã thay đổi thái độ về chuyện “tiền dâm hậu thú” mất rồi. Lại nữa, phản ứng của xã hội đối với chuyện ly thân/ly dị, nay dễ chấp nhận. Lại đến chuyện sinh con đẻ cái không cần có cha mẹ ruột hoặc chuyện người mẹ đơn chiếc một mình nuôi con nay tràn lan, rộng khắp. Cả đến thái độ như từ từ mới tính chuyện lập chuyện gia đình đã thành phổ biến, ở huyện. Ngoài ra, lý do tài chánh kinh tế cũng tiếp tay tạo thành duyên cớ, khó cãi tranh.
Nhưng, thái độ của người Công giáo trước viễn tượng đó ra sao? Có thay đổi gì không? Trả lời vấn nạn này, trên bản tường trình mang tên “Vị Khách Ngày Của Chúa” phát hành vào năm ngoái 2010, tác giả Mark M. Gray thuộc Trung tâm Nghiên cứu về Nếp sống Tông đồ Mục vụ của Giáo dân chuyên nghiên cứu/khảo sát về cuộc sống của người Mỹ tính từ năm 1972 đến 2010 cho thấy: số người chịu làm đám cưới trong nhà thờ nay giảm sút đến 60%, dù con số người Công giáo nói chung ở Mỹ lại đã gia tăng lên đến 17 triệu người. Tỷ lệ người Công giáo có gia đình cũng sụt giảm từ 79% năm 1972, xuống còn 53% năm 2010. Cũng trong thời gian này, số người Công giáo tái giá mà không cần chờ quyết định của toà án Giáo hội cho phép huỷ bỏ hôn nhân cũ tiếp tục dâng cao.
Vấn đề là, làm thế nào để lật ngược khuynh hướng đang trấn áp như thế để có lợi cho cá nhân mỗi người có mặt trong đó và cho cả xã hội, nói chung nữa?
Tình thật mà nói, chủ trương “một vợ một chồng”, cũng như hôn nhân giữa người khác phái sống mãi một đời, có khả năng sinh con đẻ cái, vẫn là lý tưởng để giáo hội có cớ mà vui mừng. Nhưng, thông điệp Giáo hội đưa ra về chuyện hôn nhân một vợ một chồng ăn đời ở kiếp với nhau mãn đời chừng như nay rơi vào sa mạc im ắng lắm. Ai cũng hiểu cũng biết đến giáo huấn của Hội thánh về lòng đạo giúp mình sống đời dục tình và hôn nhân cho phải lẽ vẫn bị nhiều người Công giáo nghi ngại hoặc lờ tịt. Cả chuyện ngăn cấm ngừa thai theo phương pháp nhân tạo cũng bị hầu như 90% các cặp phối ngẫu người Công giáo bác bỏ. Chừng như đa phần người Công giáo còn lựa chọn làm đám cưới ở nhà thờ, lại chung sống với nhau trước khi cưới.
Ngày nay, Giáo hội đáp trả ra sao về mục vụ và tín lý trước cảnh tượng người Công giáo nói riêng, nay thôi không còn nghe theo và thực hiện giáo huấn của hội thánh nữa? Thật khó mà đoán được rằng giáo huấn này có thay đổi không trong tương lai rất gần? Điều này khiến những người lâu nay bất đồng về mặt lương tâm đang sống trong tình trạng như có sự chia cách về niềm tin, khiến họ xa dần các phép bí tích, đặc biệt là bí tích xá giải. Và, chuyện nghi ngờ về giáo huấn của Hội thánh, nói chung, xem ra cũng trên đà gia tăng. Thừa biết con dân mình nay có động thái chia cách tách bạch về lập trường sống, Hội thánh đã thấy khó mà đưa ra lý lẽ nào khả dĩ thuyết phục được mọi người hài lòng để được ân huệ Chúa ban ngang qua hôn nhân. Không thuyết phục được người siêng chăm đi nhà thờ nhà thánh đã thành chuyện, còn chuyện khác nữa, là: thông điệp do Hội thánh đưa ra, sẽ khó lòng tạo ảnh hưởng lên văn hoá nói chung.” (x. A Modus Vivendi? Sex, Marriage & the Church, http://commonwealmagazine.org ngày 29/12/2011)

            Thế đó là nhận định của một học giả thuộc loại tầm cỡ, ở trời Tây Âu/Mỹ rất Cambridge. Nhận định của ông, nếu đưa vào đời có thơ và có nhạc, hẳn nhiều người sẽ lại hát những ca từ, như sau:

“Mình nào ngờ, tình rơi như lá rơi.
Người tình đầy, vòng tay ôm quá lơi.
Để giờ này một người khóc đêm thâu,
Một người nén cơn đau, nghe mưa mà cúi đầu.
Thế là hết, nước trôi qua cầu.
Đã chìm sâu những tháng ngày đắm mê.
Thôi đành quên, những tiếng yêu đầu
Những lời yêu ấy, nay đã quá xa.”
(Hoàng Nguyên – Bđd)

Thật ra, như thế đó đâu có là “Nước trôi qua cầu”, cũng chẳng là “tiếng yêu đầu”, “lời yêu ấy nay đã quá xa.” Bởi, những “lời yêu ấy” hay “câu ca này” vẫn cứ là tình tự của những người sống đời thường vẫn rất mực. Bởi, lời yêu thương đích thực, phải có cuộc sống như lời của thánh nhân nhà Đạo từng quả quyết, rất như sau:

”Tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa,
vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.
Tâm trí họ đã ra tối tăm,
họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban,
vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát.
Họ đã mất ý thức nên đã buông thả,
sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ.
Còn anh em,
anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu;
ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu
và được dạy dỗ theo tinh thần của Người,
đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu.
Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa,
là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối,
anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em,
và phải mặc lấy con người mới,
là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa
để thật sự sống công chính và thánh thiện.”
(Êp 4: 18-25)

            Cuối cùng thì, tất cả rồi cũng sống. Nhưng, sống có như lời dạy ở trên hay không, đó mới là vấn đề. Sống, như được dạy từ năm trước, kiếp trước. Có trước có sau, cũng rất hậu. Sống có trước có sau, là sống xứng đáng như một “Kitô-khác”. Là, sống như người được dạy theo tinh thần của Đức Kitô, suốt một đời. Sống xứng đáng như người đời, ở ngoài đời vẫn từng hát:

            “Nẻo đường cũ giăng đầy mưa
Khuất mù lối khiến nên tình đành lỡ
Ta giờ đây như rừng thu
Nắng liệm với chiếc lá vàng cuối mùa.” 
(Hoàng Nguyên – bđd)

            Sống như người được dạy dỗ, ở nhà Đạo, là sống có diện mạo của Đức Kitô phản ánh trong đời sống. Là, sống có tình, có lý đúng nghĩa nhân bản, chứ không là sống theo thời, rất đua đòi. Sống đời người nhà Đạo có tình có lý, có cả luân lý, đạo đức là sống không hổ thẹn với lương tâm. Sống có lương tâm, là sống cuộc đời năng nổ nhưng bình dị, mẫn cán, chẳng ai chê.
            Nói nôm na, thì sống cuộc đời bình dị con nhà có Đạo, là sống mà không sợ người khác chê cười. Dù đôi lúc người mình cũng có những động thái khá là kỳ quặc, như truyện kể nước người có giai thoại rất như sau, coi như để minh hoạ cho một cuộc sống trầm lắng, bình dị, yên ổn, từ tựa câu truyện vui ở bên dưới:

“Truyện xảy ra tại sảnh đường toà thị chính ở San Francisco, bang California Mỹ hôm ấy như sau:
                        -Người kế tiếp, xin mời.
                        -Chào cán bộ. Chúng tôi muốn xin giấy chứng hôn nhân, được không ạ?
                        -Hai anh tên gì?
                        -Dạ, chúng tôi là Văn Nhân và Nhân Văn, cùng họ Nguyễn.
                        -Cùng họ sao? Thế, có liên hệ bà con không?
                        -Dạ, chúng tôi là anh em ruột.
                        -Anh em ruột sao lại lấy nhau?
            -Dạ, thế không được sao? Cán bộ vẫn cấp giấy chứng cho người cùng phái tính chứ? 
                        -Đúng. Cả ngàn người, nhưng chẳng ai là anh em. Anh em lấy nhau là chuyện vô luân. 
                        -Vô luân ư? Bọn tôi có đồng tính luyến ái đâu mà gọi là vô luân!
                        -Không đồng tính luyến ái, sao đòi cưới nhau?
            -Thưa, bọn tôi làm thế vì lý do tài chánh. Nhưng thực sư thương yêu nhau, chứ chẳng có ý đồ nào khác.
            -Chính phủ cấp giấy chứng hôn nhân cho các cặp đồng tính luyến ái nam hoặc nữ bị luật lệ từ chối cơ hội đồng đều. Các anh không là anh em đồng tính luyến ái, vẫn có thể lấy phụ nữ làm vợ được mà.
            -Xin cho tôi nói. Người đồng tính có quyền lấy phụ nữ làm vợ như bọn tôi, điều đó ai cũng biết. Nhưng, bọn tôi thẳng thắn nạp đơn, đâu có nghĩa là bọn tôi muốn lấy phụ nữ làm vợ. Tôi chỉ muốn cưới mỗi Văn Nhân thôi.
            -Còn tôi, chỉ muốn cưới Nhân Văn thôi. Phải chăng như thế là cán bộ kỳ thị người không phải là đồng tính luyến ái chứ gì?     
            -Thôi được. Thôi được. Tôi cấp cho các anh giấy ấy. Nào, mời người kế tiếp!
            -Dạ. Chúng tôi đến đây xin cưới nhau và muốn nhận giấy chứng hôn nhân.
            -Các người tên gì?
            -Nguyễn Công Khai, Lý Thị Chứng, Đặng Đình Ban và Bùi Thị Nạc.
            -Ơ kìa? Ai lấy ai thế này?
            -Bọn tôi tất cả đều muốn lấy nhau.
            -Ấy ấy! Như thế nghĩa là thế nào? Lấy cả bốn người hay sao?
            -Đúng. Cán bộ biết đấy. Bọn tôi đều lưỡng tính. Tôi yêu Thị Chứng và Đình Ban, Thị Chứng cũng yêu tôi và yêu Thị Nạc. Thị Nạc lại cũng yêu Đình Ban và Thị Chứng; và Đình Ban yêu luôn Thị Nạc và lẫn tôi nữa. Chúng tôi cùng muốn lấy nhau. Có như thế mới chứng tỏ là chúng tôi chọn phái tính nào thích hợp trong hôn nhân.
            -Ấy nhưng mà, đây chỉ cấp giấy chứng hôn nhân cho người đồng tính luyến ái mà thôi.
            -Nếu thế thì, cán bộ kỳ thị người khác tính phái nhưng lại yêu nhau có phải không?
            -Không phải. Ý nói thế này: truyền thống hôn nhân chỉ có nghĩa cho từng cặp một thôi.     
            -Thế là cán bộ cũng đứng trên quan điểm truyền thống của cha ông sao?
            -Ý tôi nói, là quý vị phải vẽ cho mình một đường hướng truyền thống thôi.
            -Ai nói vậy cán bộ? Không ai có quyền giới hạn hôn nhân chỉ cho từng cặp mà thôi. Càng nhiều cặp càng tốt. Nhưng thôi, bọn tôi đến đây để đòi quyền lợi đồng đều! Thị trưởng của chúng ta chả nói là hiến pháp bảo đảm luật pháp bảo vệ mọi người đồng đều sao? Cán bộ phải cấp giấy chứng hôn nhân cho chúng tôi mới đúng.
            -Thôi được. Thôi được. Mời người kế tiếp.
            -Xin chào cán bộ. Tôi muốn xin giấy chứng hôn nhân.
            -Cho ai?
            -Cho tôi là Đặng Quyết Liệt.
            -Còn người mà anh muốn cưới đâu rồi?
            -Chỉ mình tôi. Chẳng có ai là người kia hết. Tôi chỉ cưới mỗi mình tôi mà thôi.
            -Cưới chính mình? Thật ra, ý anh muốn nói gì?
            -Tôi mới vừa nói xong. Bác sĩ trị tâm thần bảo rằng: trong tôi có hai con người. Vậy nên tôi muốn cưới người thứ hai kia thôi. Làm như thế tôi đòi được tiền thuế nhà trả cho hai người.
            -Vậy sao? Nếu thế, tôi nghỉ không làm nữa. Các anh chỉ muốn vấy bẩn hôn nhân thôi!”

Vấy bẩn hôn nhân theo truyền thống ư? Phải chăng đó là chuyện nực cười, ở đời người?  không? Hôn nhân hay đời người, vẫn trân trọng mọi truyền thống dù có sai lầm. Vấy hay không vấy, bẩn hay sạch, đời người vẫn cứ là thế. Đã nào sai chậy dù một chấm phết.  Càng không thể đổi thay chỉ một sớm một chiều, rất khôn nguôi.
Nghĩ thế, nên bần đạo lại mời bạn và mời tôi về với thi ca/âm nhạc mà nghe hát, những lời như:

                        “Khóc mà chi, yêu thương qua rồi,
Than mà chi, có ngăn được xót xa.
Tiếc mà chi, những phút bên người,
Thương mà chi, nhắc chi chuyện đã qua.”
(Hoàng Nguyên – bđd)

            Bởi, có khóc thương “chuyện đã qua” cũng chẳng “ngăn được xót xa”. Chi bằng, ta cứ về ao ta mà thưởng ngoạn điều hay lẽ phải của cuộc đời. Rất đáng yêu. Cũng chẳng thiếu một điều gì.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Không than và cũng chẳng khóc
            dù đời nhiều xót thương.
            Vẫn hy vọng nhiều
như Thày mình đã hứa.
           

Saturday 7 July 2012

"Khi xưa đôi ta bé ta chơi,”


Chuyện phiếm đọc trong tuần Thứ 15 Thường niên Năm B 15.7.2012 

"Khi xưa đôi ta bé ta chơi,”
Đôi ta chơi bắn súng khơi khơi
Chơi công an đi bắt quân gian,
Hiên ngang anh giơ súng ngay tim: Bang! Bang!
(Nhạc bản: Bang Bang do Sonny Bono viết – Phạm Duy đặt lời Việt)
(1Ga 2: 1-2)
            “Bắn súng khơi khơi”, nếu chỉ là câu ca để vui chơi, thời niên thiếu, thì cũng chẳng lấy làm điều. Nhưng chơi trò “Công an đi bắt quân gian” rồi lại dí súng vào đầu rồi hát: “Hiên ngang anh giơ súng bắn ngay tim Bang! Bang!” thì có lẽ cũng “hơi bị sợ”. Sợ, cho lũ trẻ khi xưa chẳng biết chơi gì, ngoài trò “Anh bắn ngay em: Bang bang! Em ngã ngay sân, Bang! Bang!” Ngã xong rồi, lại cứ hát: “Tiếng súng khi xưa, ta sẽ không quên bao giờ.” Ôi! quả thật đáng sợ!  Sợ, cho người và cho mình vì trò chơi những bắn và bắn, rất như sau:
“Bao năm qua ta đã hai mươi,
Câu yêu đương đã đến cho đôi,
Môi hôn thay câu nói thơ ngây,
Chơi yêu thay chơi bắt nhau vui...
Anh xa em, em mất anh yêu,
Không ai coi xem lỗi nơi ai,
Anh ra đi, anh đã ra đi,
Anh đi theo duyên mới xa xôi: Bang! Bang!
Anh đã ra đi: Bang! Bang!
Em sẽ bơ vơ: Bang! Bang!
Tiếng súng khi xưa: Bang! Bang!
Ta sẽ không quên bao giờ...”
(Bang Bang - Lời Việt của Phạm Duy – bđd)

            Cũng may, nhạc bản “Bang! Bang!” của Pháp, nay đi vào quên lãng. Nếu không, hẳn bạn bè/người thân của bần đạo suốt ngày cứ nghe ca sĩ Dalida hát mãi câu “Bang! Bang!” đến nhức cả cái đầu, mà điên mất! Chưa kể, có lần bần đạo xem dĩa nhạc thấy cô ca sĩ trình diễn bài này cứ vò đầu, bứt tai rồi nằm dài ra sàn, thấy mà ngán.
            Vâng. Hôm nay đây, các ca sĩ người Pháp hẳn không còn hát bài ca dí súng vào đầu rồi “Bang! Bang!” bắn loạn xạ cả lên. Và,  cũng chẳng còn ai lải nhải hát hoài và hát mãi ca từ cứ lập đi lập lại mỗi tiếng “Bang! Bang!” Chao ôi! Thiên hạ sao vẫn cứ sợ và cứ hãi mỗi khi nghe tiếng súng bùm bùm ở đâu đó, cả trong trò chơi điện tử ở di động “iphone” hoặc “ipad” nát cả đôi tai của giới trẻ rất tuổi “teen”. Sợ quá đi thôi, khi bày tôi nghe đấng bậc nọ lại đã ưu tư quá mức như tác giả bài báo ở bên dưới:

“Tuần qua, có nữ phụ nọ cùng lên xe lửa vào lúc đông người hết cả chỗ ngồi, bèn đứng trước mặt tôi tay cầm chiếc di động lắc qua lắc lại như thể là bà đang bị thứ ma lực quỉ quái nào đó nó hớp hồn. Lại mới hôm rồi, tôi ngồi cạnh một bà sồn sồn khác cũng trên xe lửa, cứ dùng tay đập đập vào màn hình nhỏ bé trên di động hệt như người bệnh tâm thần cứ đập đập vào thiết bị “ipad” để chơi “ghêm” trò “chiến tranh giữa các vì sao”, đến nhức óc. Hai sự kiện xảy đến khiến tôi tự hỏi: “làm sao những con người bình thường không còn nhỏ nhít gì nữa mà sao vẫn cứ đam mê thích thú mấy trò điện tử rất mất giờ, như vậy? Mất thì giờ cả với trò chơi điện tử dành cho bọn trẻ nhỏ ba bốn tuổi như con của tôi đến như thế? (x. Bernard Toutounji, Are electronic games making us stupid? MercatorNet 12/5/2012)

            Hỏi là hỏi vậy thôi, chứ người viết ở trên chắc hẳn vẫn xác nhận rằng: trò chơi điện tử cũng có nhiều mặt tích cực của nó, như ông còn thêm ở bên dưới:

“Vẫn biết trò chơi điện tử cũng có nhiều điều khá tích cực, nhưng với tôi, nếu ta chế ngự được tính say mê đến miệt mài các trò chơi điện tử này khác vẫn tốt hơn là mấy trò rút kinh nghiệm hay ho/tích cực từ lợi ích của trò chơi trẻ nhỏ ấy. Thành ra, ở truờng hợp này, tôi hơi lo ngại về tầm ảnh hưởng của trò chơi “ghêm” đầy bạo lực và các hành xử đầy “hình sự” cũng như dục tính vẫn cứ lan tràn trong các trò chơi như thế.
Là người sống trong cộng đồng xã hội rất đa dạng, chúng ta được mời gọi hãy hành xử cách sao đó, khả dĩ nối kết với người cùng sống trong cộng đoàn niềm tin của mình, hơn lủi thủi ngồi một xó với chiếc di động nho nhỏ hoặc máy vi tính đặt trên đùi, để chơi riêng một mình, thôi. Đằng khác, nếu có dư giờ rảnh rỗi, có lẽ ta cũng nên nhớ rằng mình được mời gọi để sống sao cho đời mình có ý nghĩa hầu giùm giúp/hỗ trợ những người đang thiếu ăn thiếu mặc, hoặc bệnh tật. Được kêu mời đến với tuổi nhỏ suốt ngày không biết làm gì ngoài việc ngồi co ro nơi xó xỉnh, chờ người đến cho ăn cho mặc. Ta còn được mời gọi trở thành những người cha, người mẹ biết dạy dỗ giáo dục đàn con biết vui sống và trân trọng những gì là chân thiện mỹ rất cần để thiết lập một xã hội tốt đẹp và lành mạnh mà đón chào những bạn trẻ quyết tâm gia nhập cộng đồng lành mạnh không bắn giết dù chỉ là trò chơi trên mạng.
Và cuối cùng, ta được gọi mời hãy rời bỏ thế giới bát nháo này. Và, cho đến nay, tôi vẫn chưa thấy được trò chơi điện tử nào lại có thể giúp mọi người đáp trả lời mời gọi tha thiết như thế.” (x. Bernard Toutounji, bđd)      

            Lời gióng tiếng của tác giả trên chừng như vẫn chỉ là tiếng vang trong sa mạc cuộc đời nơi phố chợ. Những phố và chợ, có quá nhiều thú tiêu khiển để tiêu pha/thiêu đốt số thì giờ dư giả, chả biết làm gì cho hết, để được vui. Chừng như con người thành thị hôm nay, nhất là ở những thị thành có thừa phương tiện giải trí, nhưng chẳng thể nào giải khuây được trí não cứ ưu tư/phiền muộn về đủ thứ. Chí ít là những thứ/những trò chơi thời hiện đại mà người viết còn chua thêm đôi lời nhắn nhủ để kết luận:

“Thật ra thì, tôi cũng chỉ muốn đưa ra dăm ba ý cỏn con/hèn mọn đại khái ví thử và chỉ ví thử thôi, khi trò chơi điện tử có đem đến cho bạn và tôi đôi điều lợi hơn ta tưởng. Để rồi lần tới, nếu có được dăm ba phút phù du kiếm tìm trò giải trí, hãy thử xét xem các trò chơi điện tử ta say mê như thế có giúp được gì hơn cho toàn bộ cuộc sống của mình không, đó mới là vấn đề.” (x. Bernard Toutounji, bđd)

Giúp gì không? có lẽ là câu hỏi vẫn cứ đeo đuổi mọi người, trong đời. Câu hỏi ấy. Câu nói này, cũng vẫn là và cứ là vấn nạn đặt ra cho tôi/cho bạn, ở đây, hôm nay. Cùng với vấn nạn trên, còn có vấn nạn gửi đến tôi và bạn, có đính kèm cả lời thơ cũng như giòng nhạc, như sau:
“Nay khi ta ra chốn công viên,
Trông bao nhiêu em bé hân hoan
Chơi công an đi bắt quân gian
Chơi đi theo đi trốn lăng xăng: Bang! Bang!
Ta nhớ năm xưa: Bang! Bang!
Trong trái tim ta: Bang! Bang!
Tiếng súng khi xưa: Bang! Bang!
Ta sẽ không quên bao giờ...”
(Bang Bang - Lời Việt của Phạm Duy – bđd)

            Ta nhớ năm xưa”, thật ra không chỉ nhớ có mỗi trò “Công an đi bắt quân gian” rồi lại hỏi: chơi như thế, có bắt được tên quân gian nào không? Hoặc, giơ súng bắn “Bang bang”, cả vào dân ngoan hiền, nào có gian. Bắn, vào nền văn hoá dân gian, rất ngoan cường còn bức bách.
Hôm nay đây, ở thị trường trò chơi điện tử trên mạng/di động, còn có những thứ cứ tưởng như đang chơi trò “công an đi bắt quân gian”, rất đơn giản. Mà kỳ thực, chỉ toàn những trò mây mưa/hoa bướm gườm bắn nhau rất đáng lo ngại, mà tác giả khác lại đã cảnh giác, kêu gọi bậc cha bác hãy bảo vệ con em mình về hiểm hoạ gọi-là trò khiêu dâm trên mạng trực tuyến, rất như sau:

“Chính phủ Anh lâu nay vẫn để tai nghe ngóng về những lo âu/quan ngại của dân thường về mối hiểm nghèo đặt ra cho con trẻ khi chúng tiếp cận các trò chơi điện tử có nội dung dâm đãng hoặc các ảnh hình tưởng như đơn thuần mang tính giáo dục, nhưng thực chất lại làm cho bậc cha/bác thấy quan ngại vì khả năng của các ngài về vi tính mà họ còn thua con cái rất xa, khó kiểm soát nổi.
            Tháng Mười rồi, bốn nhà cung cấp dịch vụ trên mạng đã đồng loạt chấp nhận hệ thống gọi là “Chọn lựa thiết thực” qua đó, khách hàng nhỏ của họ phải để cho cha mẹ mình kiểm soát mọi cuộc nối mạng, nếu không sẽ bị từ chối cấp dịch vụ. Tuy nhiên, một khi đa số thành viên trong gia đình từng quen nối mạng vào chơi trò điện tử hoặc nhu liệu nguy hiểm như trước đó, thì chuyện quan ngại của bậc cha mẹ hoặc giới chức có thẩm quyền đều vô ích thôi.
            Tháng trước, lưỡng viện quốc hội Anh đã đạt thắng lợi khi yêu cầu: từ nay chính quyền phải có biện pháp bảo vệ con trẻ để mỗi khi các em nối mạng tiếp cận các chương trình này khác, thì bậc phụ huynh sẽ phải đóng vai trò tích cực hơn để sàng lọc các trang mạng nào có nội dung không lành mạnh. Các nghị viên/dân biểu thuộc nhiều đảng phái khác nhau đều muốn là chính phủ phải đề nghị để có nhiều người sử dụng hệ “Chọn lựa thiết thực” này. Nói cách khác, thì các vị ấy muốn đề ra tiêu chuẩn để sàng lọc nội dung cấp mạng cho những ai muốn tiếp cận nhu liệu dành cho người lớn tuổi phải chon cung cách “lọc bỏ.” Điều này kích động hệ thống được các công ty sản xuất điện thoại di động vẫn sử dụng khiến họ phải lập thiết bị khác ngăn chặn nội dung mạng dành cho người lớn tuổi, cho đến khi chuyên viên của họ rà soát và chỉnh đốn hệ thống xong xuôi mới thôi.
            Tuy nhiên, theo báo cáo của Ủy Ban Tham Vấn Độc Lập thuộc Quốc Hội đã xem xét bảo vệ cho con trẻ khi chúng nối mạng, đã phát giác ra rằng thiết bị sàng lọc này không thực hiện được việc bảo vệ con trẻ trong chuyện đó. Có vài công ty cấp dịch vụ sàng lọc thật đấy nhưng, chỉ một số ít bậc cha mẹ biết và chịu sử dụng thiết bị này thôi, có vị chẳng bao giờ dùng đến nó. Và, số người sử dụng thiết bị này cũng giảm sút đáng kể. Thành thử, con trẻ ngày càng khôn hơn, càng bỏ nhiều giờ ra để nối mạng và chơi trò chơi; chí ít, còn biết né tránh thiết bị sàng lọc nữa là khác.
            Kết cuộc là: lớp trẻ hôm nay biết cách luồn lách và dễ tiếp cận với các nhu liệu khiêu dâm hơn, chúng lại càng dễ phơi mình cho mạng nối kết khai thác tính ngây thơ để rồi càng dễ tiếp xúc các trò dâm ô, bạo hành cũng như nhu liệu làm hạ phẩm giá con người ngang qua mạng nối nào không bị sàng lọc; từ đó, gánh chịu mọi hậu quả rất rối bời. Và, sự thể càng trở nên tồi tệ hơn.
Báo cáo trên cũng đề nghị các nhà cung cấp dịch vụ nối mạng nên cải thiện truyền thông trao đổi hiện tại sao cho mạng nối kết trở nên an toàn hơn; huấn luyện thêm cho các nhà bán lẻ, giúp các nhà sản xuất phát triển chương trình sao đó khả dĩ giúp đỡ các gia đình   được thân thiện, nói tóm lại, làm sao để mọi người có thể cải thiện hệ thống an toàn mỗi khi cài đặt phần mềm vào vi tính của mình.” (x. Family Edge, Protecting Children from Online Porn, MercatorNet 29-5-2012)

            Ý kiến phản hồi về vấn đề này, thấy cũng kha khá ở trời Tây. Tức, một phương trời mà con người có quyền ăn nói rất đứng đắn, chững chặc để đóng góp vào việc chỉnh sửa tình trạng của xã hội hôm nay có quá nhiều tệ hại, trong nhiều chuyện. Ý kiến phản rõ nét và nổi cộm nhất tóm gọn như sau:

“Lo âu của tôi là về điện thoại di động. Có người bảo với tôi rằng: chỉ có loại máy Andriod và iPhone là còn có thể sàng lọc được các địa chỉ mạng nào không thích hợp cho trẻ em thôi. Điều đó có nghĩa là: các chương trình khác lâu nay được đưa lên mạng đều không có phần mềm để ngăn chặn con trẻ nối vào mạng nguy hiểm. Bởi thế nên, theo tôi, các công ty điện thoại di động có bổn phận phải phát triển sản phẩm điện thoại của họ phải có chương trình nào đó khả dĩ ngăn chặn được con trẻ nối vào các trang mạng nguy hiểm như thế.” (Patrick Goh, bđd)

            Và một phát biểu khác, của người đọc:

“Ở Nam Phi, thày giáo của tôi có người vợ hiền từng thực hiện công cuộc khảo sát nghiên cứu gửi cho 250 học sinh lớp 8 trong trường của chị (đám này thuộc cỡ tuổi mới 14 thôi) lại đã khám phá ra rằng: 85% trong số học sinh đó nói là các em từng ngắm hình ảnh khiêu dâm từ hồi còn học ở tiểu học cơ đấy. Thế nên, tôi nghĩ các nhà cung cấp dịch vụ mạng lưới nên sàng lọc chương trình trên mạng là cần thiết. Bản thân tôi, nhiều lúc thấy tiến trình sàng lọc quá chậm chạp nên dễ phát bực. Đôi lúc, nó còn làm cho việc lướt mạng tìm địq chỉ cũng khó khăn. Có khi còn bị nghẽn nữa là đàng khác. Nhưng, tôi vẫn hy vọng là biện pháp sàng lọc sẽ được phổ biến và có kết quả tốt…” (Chris – bđd)

Và, một quan ngại từ một nữ độc giả, ở Mỹ:

“Riêng tôi, tôi vẫn quan ngại về điện thoại di động, cũng khá nhiều. Tôi chưa tìm được chương trình sàng lọc nào cho di động iPhone của tôi hết. Bạn nào tìm ra được xin cho biết là hãng nào có chương trình phần mềm như thế nhé.” (Lisa C – bđd)

Đúng là các bậc bề trên của đám trẻ vẫn quan tâm/tìm kiếm nhiều phương cách để cải thiện đời sống gia đình, như độc giả ở dưới đây:

“Lâu nay, tôi vẫn thử xài hệ thống sàng lọc bằng phần mềm tôi mua được nhưng kết quả vẫn còn hạn hẹp. Giả như địa chỉ dâm thư hoặc hình ảnh ô trọc được thẩm định là khiêu dâm rất nguy hiểm, thì dĩ nhiên là người chụp các hình ấy dư biết thận trọng để phần mềm có thể làm công việc ngăn chặn và khoá chặt địa chỉ ấy, là điều chắc chắn.
Nhưng ngày nay, có vô số các địa chỉ không được kịp thời thẩm định vẫn đánh phá hệ thống ngăn chặn và sàng lọc. Nói chung, là: biện pháp kiểm soát của bậc cha mẹ, cũng vô phương. Thành thử, bổn phận của chính quyền là phải bảo vệ công dân mình. Con cái chúng ta đang ở vào tình thế dễ bị các nhu liệu xấu xa hủy hoại chúng nó. Chính quyền phải có biện pháp hành động để buộc các nhà cung cấp dịch vụ mạng biết tìm cách mà ngăn chặn các địa chỉ huỷ hoại, rất đáng tởm.” (Richard Cameron – bđd)

Và, thêm một ý kiến khác từ độc giả không còn trẻ, nhưng có lý:
“Tôi nghĩ, không chỉ mỗi con trẻ là cần được bảo vệ khỏi mấy thứ “độc hại và quỉ quyệt ấy”. Tôi thấy tất cả chúng ta đều nên đề cao cảnh giác. Tôi nhớ lại lời kinh chuyển cầu đến thánh Micae Tổng lãnh Thiên thần, giống như nói về hành động của Satan cùng ác thần vẫn nhả mồi rình rập ngang qua thế gian như các con sư tử nhằm giết hại các linh hồn trong trắng, mà thôi.
Bất cứ nơi nào ta đến, hoặc truyền hình hoặc quảng cáo, báo chí cũng như sách vở/tập san vv… nhất nhất đều hiện ra khơi khơi ngay trước mắt ta. Tôi nghĩ chỉ một giải pháp duy nhất là mọi người chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi chuyện ấy ra ngoài khung cảnh sống của mình là hơn cả. Ai cần mấy chuyện dâm ô như thế, tức là họ có vấn đề và những người như thế cũng nên tìm đến các chuyên gia tâm lý để được giúp đỡ.” (Jerzy Gawor – bđd)     
             
            Vấn đề trên được giới chức ở quốc hội Anh đặt ra xem chừng nghe quen quen. Nghe quen, tức: đã được lập đi lập lại khá nhiều lần, cả trên báo đài hoặc sách vở, cùng tập san. Nhưng thực tế, gợi vấn đề như thế có kết quả không lại là chuyện khác. Chuyện khác, là những chuyện được nhiều chức sắc nhà Đạo nhắc nhở cũng khá nhiều. Một nhắc nhở rõ rệt nhất là của các thánh nhân tông đồ, thời buổi trước, rất như sau:
“Hỡi anh em, là những người con bé nhỏ của tôi,
tôi viết cho anh em những điều này,
để anh em đừng phạm tội.
Nhưng nếu ai phạm tội,
thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha:
đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính.
Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta,
không những tội lỗi chúng ta mà thôi,
nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa..”
(1Ga 2: 1-2)
            Thật ra, trong chuyện này, không chắc gì đám “trẻ người non dạ” là “những người con bé nhỏ” của đấng thánh, đã phạm lỗi. Có chăng, chỉ vì tâm hồn các em còn trinh trong như giấy trắng, dễ lấm lem khi bị thảy vào chốn “nợ đời” nhiều tranh giành những là lợi nhuận. Lợi và nhuận cả từ chỗ buôn thần bán thánh, bán linh hồn kẻ ngây thơ, trong trắng rất hồn nhiên.    
            Thế nên, các vị có tránh nhiệm trong giáo dục, chí ít là nền giáo dục từ thánh Hội của Chúa, cũng nên để tâm đến vấn đề khá quan trọng này. Giáo dục từ Hội thánh, chí ít là Hội thánh Công giáo, xưa nay được tiếng là nền giáo dục chính đáng và phải lẽ, thích hợp cho mọi người.
Thế nhưng, vấn đề nay được nhiều người đề cập, là: chuyện ấy có xảy ra ở nhiều nơi không? Chí ít là tại quê nhà, nơi mà phần lớn các chương trình cũng như hệ thống giáo dục không phải chính mạch hoặc chính qui, tức qui về chính phủ/chính quyền đều bị gạt sang một bên, đi chỗ khác chơi. Thế còn, ở các nước có tự do tư tưởng, ngôn luận và học hỏi thì sao?
Trả lời cho câu hỏi này, cần nhiều chương sách để tìm hiểu và cãi bàn cho rộng đường dư luận. Tuy nhiên, chuyện bàn hay cãi ở đây về nền giáo dục chính mạch/phải lẽ không là mục tiêu của người viết “phiếm” muốn nhắm đến. Có nhắm chăng, chỉ nhắm và nhằm ý tưởng cỏn con ở đâu đó rất Úc Châu để mào đầu cho câu chuyện phiếm, hầu thưởng lãm. Chỉ là chút “phiếm Đạo trong đời” cũng lai rai, dài dài hầu bà con/bạn bè để còn thương. Thương rồi, các ngài lại sẽ đọc thêm đôi giòng chảy tư tưởng nhẹ, như bức thư tâm tình của người học trò cũ gửi đấng bậc thày dạy nay đà trăm tuổi, như sau:

“Kính gửi cha cũng là thày của con, thày Schneider rất trân quí,
Con biết chắc là thày sẽ không buồn nhìn vào những giòng chữ mọn hèn của con trong thư này, vì tự bản chất, thày chẳng bao giờ muốn nhận cho mình lời ngợi khen/cảm tạ của bất cứ ai, từ đâu gửi tới. Nhưng, con tự thấy có nhu cầu phải viết nó ra, hơn là thày có bổn phận phải đọc những gì được viết trong đó.
Con được biết, là: tháng 12 này, thày sẽ mừng đại thọ trăm tuổi, một mốc điểm của cuộc đời ít thấy có ở cõi đời trần thế. Thêm nữa, cũng vào dịp này, thày còn mừng kỷ niệm 80 năm ngày lĩnh nhận sứ vụ mục tử của một linh mục Dòng Tên âm thầm, nhưng cả thể. Điều tuyệt vời, là: hiện thời thày vẫn tiếp tục dạy đám trẻ tại cũng một ngôi trường mà lần đầu tiên trong đời, con được học với thày từ ngày lên 8, tức năm 1970. Đến hôm nay, thày vẫn trông coi đám trẻ nhỏ cùng tuổi con, như bao giờ. Thày vẫn tiếp tục sẻ san niềm tin đi Đạo vốn giúp thầy đứng trụ trên đôi chân vững chắc suốt nhiều năm tháng đổi thay bằng vào chức năng cao cả của thày. Thày là một trong các vị giáo chức đầu tiên đã chạy đến chúc mừng con ngay lúc con theo học ở trường Dòng Aloysius, Sydney.
Những năm sau đó, trông thày vẫn không khác trước là bao nhiêu. Cũng dáng người hiên ngang, mảnh dẻ như hồi nào. Cũng cung cách từ tốn, nhưng cuốn hút nhiều người đến với thày để được thụ huấn kiến thức lẫn ngôn ngữ cũng như kinh nghiệm sống trong đời, nữa.
Con nhớ vào năm 1971, thày đã bỏ nhiều thì giờ ra mà chỉ dẫn đám trẻ bọn con học biết chơi môn “cricket” truyền thống dành cho lớp 10 của trường là lớp không mấy khá về môn này. Con là đứa đệ tử yếu kém nhất, thế mà cuối cùng cũng đạt được kết quả khả quan…
Ngày thứ hai hôm sau, trong môn tôn giáo, bọn con cố nhẩm thuộc lòng câu đáp trả đúng nghĩa nhất cho vấn nạn của mọi thời, ở câu hỏi: “Làm sao biết được Chúa thương em?” Quay lại nhìn, con bỗng thấy vui vì bọn con mới chỉ bắt đầu trả lời có ba hàng chữ đã thấy gần đúng, và biết rằng đó là một trong các câu hỏi vẫn hóc búa nhất vào mọi lúc. Dù sao, lúc ấy thày vẫn gọi tên con rồi nói: “Ơ kìa Michael, hãy nói cho mọi người biết là khó như môn cricket mà hôm rồi anh còn chơi thật giỏi, thì sá gì mấy câu hỏi này! Anh vẫn là tay cự phách cơ mà!” Qua những lời nhận xét như thế, con biết được là thày vẫn quan tâm đến hết mọi người dù chỉ môn chơi bóng hay học hành. Và cũng từ đó, con học biết được thế nào là tình yêu của Chúa.
Và còn nhiều thứ nữa con không thể kể hết về người thày mà con hằng trân quí. Như năm rồi chẳng hạn, dù ở vào tuổi 98, thế mà thày vẫn cùng đi và cùng đến dự tang lễ mẹ con. Điều đó chứng tỏ là thày vẫn quan tâm không những chỉ mỗi học trò mình mà cả gia đình của học trò nữa. Và cũng ngày hôm ấy, bằng nụ cười rất nhẹ trên môi, thày còn bảo với con: “Em có được một người mẹ thật tuyệt vời, vì bà cũng nghĩ em là người tuyệt diệu hệt như thế.”
Đôi lúc trong cuộc sống làm người trưởng thành, đoạn đường con đi cũng không là con đường thẳng tắp, xuôi xắn. Thế nhưng, bọn chúng con vẫn có được người thày luôn chung bước, cả vào những ngày trời không sáng sủa, phong ba vần vũ, với bão táp. Cả những khi ngồi trên phà đi Manly ngày Chúa Nhật để rồi sẽ cùng thày đi bộ dọc bờ biển tới Corso. Con nhớ có một lần con mướn xe chạy băng qua cầu cảng Sydney để đến dự một buổi hội thảo về vấn đề gì đó, có trời biết. Nhìn qua khoé mắt, con thấy thày lúc ấy đang cuốc bộ cũng đi về phía cầu, đầu đội mũ vải trông chẳng giống ai. Sau buổi ấy, hình ảnh của thày cứ lờn vờn mãi trong đầu óc của con và nhiều lúc con cũng rối như tơ vò về nhiều chuyện.
Cách nay ít năm, con thấy thày cũng đến dự buổi thuyết trình nọ trong đó có cử toạ biết rất nhiều điều lại cũng phát biểu chung quanh đề tài “giáo dục theo tư cách của thừa tác viên trong Đạo”. Con nhớ hôm ấy có người hỏi ý thày là nên truyền kinh nghiệm quí báu nào cho các giảng viên hay giáo chức mới nhận việc. Lúc đó, thày cứ nhắc đi nhắc lại mãi một câu: “Hãy nắm chắc mình phải là người thày đáng tin cậy, bằng không thì hỏng bét”. Riêng con, con thấy đó là lý tưởng thâm sâu mà chính thày vẫn tâm niệm và thực hiện. Đó, cũng là bản chất con người của thày. Con tin chắc Thiên Chúa đã dùng lòng tin của thày để nói lên biết bao nhiêu là chương sách cho một thế giới đầy ắp những khuôn mặt tưởng là sáng sủa, nhưng vẫn tối mù vì tính vị kỷ, ghét ghen và đố kỵ.
Con tin chắc mọi điều thày từng bảo ban/dạy dỗ sẽ được hiện thực hôm nay và  mai ngày.
Michael McGirr
(x. Michael McGirr, A Letter to Fr Schneider, Australian Catholics, Winter 2012, tr. 9)                            

            Thời buổi này, mà có người vẫn tìm giấy bút để chính thức cảm tạ và ngợi khen bậc thày từng dẫn dắt mình trong mọi chuyện, cũng là chuyện hiếm có, thấy không nhiều. Không nhiều, là bởi: người đời nay chỉ thích bàn và thích nói những chuyện nào gây lợi ích, thích thú hơn gì khác.
            Đề cập chuyện này, bần đạo đây, đôi lúc cũng nhớ lại đôi ba truyện kể vui vui, nhè nhẹ, để phiếm cũng không dài. Phiếm và kể ở đây, cũng chẳng chết ba thằng Tây đen/Tây trắng nào hết. Nghĩ thế nên, xin được giới thiệu cùng bạn bè/người thân, ta nghe thêm lần nữa, tiếu lâm nhạt để thư giãn. Tiếu lâm hôm nay, tuy ngắn nhưng cũng nói lên phần nào tâm lý người đời những mong chuyện lạ đời cứ xảy đến cho mình vui, như sau: 

“Có gia đình nọ đang phom phom lái xe trên đường bỗng thấy con cóc ồm ộp nhảy ngang qua. Ông chồng kịp thời thắng xe rất gấp nhưng an toàn, rồi bước xuống, bưng con cóc để bên vệ đường. Bỗng phút chốc, cóc con nói được tiếng người, bèn lên tiếng rất cảm kích:
- Cám ơn ông đã cứu mạng. Tôi sẽ tặng cho ông bà mỗi người một điều ước, xin cứ nói!
Người đàn ông đáp:
- Vậy, hãy làm cho con chó của tôi thắng được cuộc đua hôm nay xem nào?
Ông gọi con chó nhỏ của mình nhảy ra, và khi thấy nó chỉ có ba chân, con cóc buồn rầu bảo:
- Khó quá ông à! Hay ông ước điều gì khác, có được không!
Lúc đó bà vợ trong xe nghe vậy bèn bước khỏi xe vội vàng nói:
-Vậy, ngươi hãy làm cho ta trở thành hoa hậu phu nhân “sexy” nhất năm nay, cũng được chứ? Cóc nhìn người vợ từ đầu đến chân, rồi quay phắt lại nói với ông chồng bằng giọng thểu não:
-Này Ông! Ông hãy để tôi xem lại xem con chó của ông một lần nữa, may ra tôi làm được.”

Hoa hậu “sexy” nhất trong năm, hoặc người nữ tiêu biểu nhất trên truyền hình/vi tính, còn là uớc vọng của nhiều người, trong đó có cả đạo hữu chuyên chăm, sống âm thầm tối ngày chỉ biết đi nhà thờ/nhà thánh nguyện gẫm bấy lâu nay.
Nói cho cùng, sống ở thời đại có truyền thông “di động” đủ mọi loại hình hấp dẫn, thật khó mà giữ được lập trường nhất mực, về lòng đạo với lý tưởng. Dù khó mấy đi nữa, cũng vẫn nên giữ vững lập trường “chính chuyên” của Hội thánh Nước Trời, hôm nay.
Nghĩ thế nên, xin đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta hát tiếp câu ca Bang Bang làm đoạn kết, như sau:

“Đôi ta theo nhau lớn lên mau
Đôi ta luôn thân thiết bên nhau
Ta yêu nhau như lũ bé con
Nhưng anh ham chơi bắt nhau luôn: Bang! Bang!
Anh thích lăng quăng: Bang! Bang!
Em cũng theo anh: Bang! Bang!
Tiếng súng khi xưa: Bang! Bang!
Ta sẽ không quên bao giờ...”
(Bang Bang - Lời Việt của Phạm Duy – bđd)

            Nhớ hay quên, cũng đừng nhớ mỗi tiếng Bang Bang hôm nào, ở trò chơi thôi. Nhưng tốt hơn, hãy nhớ lời bậc thày trăm tuổi ở trường Dòng Sydney cứ nhắn nhủ hết mọi người là: “Hãy nắm chắc là mình mãi mãi trở thành con người bình thường, nhưng đáng tin cậy”. Bởi lẽ, thời đại này kiếm được những người như thế. Không phải dễ.
            Trần Ngọc Mười Hai
            Tuy không bi quan là thế,
nhưng vẫn quyết tâm nhớ lời dặn
            của bậc Thày năm xưa trên núi thánh
            về 8 mối rất lành thánh. Phúc hạnh.