Friday 27 January 2012

“Tìm mãi trên thung lũng hồng, thương yêu ngạt ngào,”


Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 5 thường niên năm B 05.02.2012

“Tìm mãi trên thung lũng hồng, thương yêu ngạt ngào,”
“Người hỡi cho ta suốt đời, một mình lẻ loi.”
(Phạm Mạnh Cương – Thung Lũng Hồng)
(Cv 15: 29)
Buổi vui hôm ấy, ngày đầu niên biểu 2012, bần đạo cùng với hai thành viên trong gia đình nhỏ bé bất chợt ghé viếng “thung lũng hồng” nước bạn nọ tìm “hương yêu ngạt ngào”, nhưng không cùng cung điệu mà nghệ sĩ trên từng nhấn mạnh ở ca từ: “Cho ta suốt đời, một mình lẻ loi.”
Theo bần đạo, sở dĩ nghệ sĩ “mình” thấy lẻ loi/đơn côi là bởi khi viết nhạc ông chỉ viết cho giới ưa ca hát như bần đạo đây, để rồi lại cứ ê a đôi ba lời hát rất lê thê/câu nệ vẫn như sau:

                        “Gọi gió lên thung lũng hồng, mây trôi bềnh bồng.
                        Hạt nắng lung linh tím dần mênh mông thu vàng.
                        Còn đó, Em yêu dỗi hờn long lanh lệ buồn,
                        Còn đó, sương vây kín đầy cho tình ngất ngây.”
                        (Phạm Mạnh Cương – bđd)

Với bần đạo, khi gọi nơi nào là “thung lũng hồng”, thì dù thấy “lung linh tím dần, mênh mông thu vàng” đi chăng nữa cũng chẳng nên kêu: “Sương vây kín đầy, cho tình ngất ngây!” Bởi, nơi “thung lũng hồng” ấy nay toàn những “hương yêu ngạt ngào” của ngày vui. Rất hôm ấy.
Ngày vui hôm nay hay hôm ấy đến với bần đạo là câu vẩn vơ từ một đồng nghiệp ở Úc thích viết lách khi biết bần đạo ghé chốn “thung lũng hồng” rất lạ lùng nơi xa xôi, bèn có lời hỏi:

“Này bạn qua đó, có thấy món bê thui mềm mại mà dân vọng ngoại cứ bảo: bê/bò xứ Ác-Hen-Ti-Na là bò/bê ngon nhất thế giới không? Nếu có, đừng quên cho bọn tớ dăm ba ý kiến/ý cò để so sánh nhá!”

Nghe hỏi, bần đạo hơi hụt hẫng vì bỗng dưng bạn bè dành cho mình dịp thuận để chạy thoát tình thế “vẫn như thế”, nay “thế thời” của những viết lách chuyện tu đức với đạo hạnh, đã qua đi trong phút giây. Được lời như cởi tấm lòng, bần đạo thay vì trực chỉ câu trả lời rất ư thật tình mình vẫn nghĩ, chỉ trở về với ca từ nghệ sĩ cứ ê a ba câu nữa:

Tình xa trên thung lũng hồng,
Tình nhớ trên trên thung lũng hồng,
Ngàn sau rồi sẽ khóc thầm,
tình yêu vụt theo lời gió.”
(Phạm Mạnh Cương – bđd)

            Quả thật nghe hỏi, bần đạo những muốn “khóc thầm” nhớ lại tình huống khi xưa rất mê “thung lũng hồng” với bê/bò mềm béo chốn cao nguyên nhiều “thung lũng”, nay vắng mặt. Đặt chân đến chốn miền nhiều “thung lũng (rất) hồng” ở xứ miền rất Nam Mỹ mà lại hỏi về bê/bò mềm mại có là thứ thịt ngon nhất thế giới không, khác nào hỏi ông răng rụng khá rung rinh, rằng: lúc này ông thưởng thức món sườn nướng, thấy làm sao?
            Hỏi bần đạo những câu tương tự, khác nào hỏi “người mù đi xem voi”, bởi lâu lắm rồi, bần đạo đây tuy không tu chùa/tu Phật, nhưng đã bỏ thịt thà, nên mỗi lần nghe hỏi bần đạo đến là rùng mình phát khiếp. Thôi thì bạn bè đã hỏi, bần đạo cũng đành mượn ý kiến với lập trường của đức thày nhà Đạo tên tuổi rất John Flader ở Sydney để cùng bầu bạn tản mạn đôi ba giòng chảy rất quen quen.
Quen quen chuyện hôm rày và hôm nay, không nhất thiết phải là triết/thần rất cứng ngắc của người nhà Đạo, cho bằng chuyện lạo xạo trong đời, của người đời, những ăn và uống chung quanh “thung lũng hồng” ở đây đó như sau:

“Trả lời câu hỏi của anh/chị: người Công Giáo có được phép ăn thịt “Halal” của người Hồi giáo hay không, tôi nghĩ trước tiên cũng nên xác định rõ thế nào gọi là thịt “Halal” của anh chị em đạo Hồi. “Halal”, tiếng Ả Rập, chỉ có nghĩa là “phù hợp với lề luật” thôi, nên “Halal” là thứ thịt mà người theo đạo Hồi đuợc phép ăn mà không sợ trái luật đạo do đấng Mohhamed tạo ra. “Halal” khác với “Haraam” là thứ thực phẩm bị cấm ngặt.

Đạo Hồi cấm người đi đạo ăn thịt heo, uống máu súc vật, cùng loài thú từng bị xiết cổ hoặc đánh đập cho đến chết. Đạo còn cấm mọi người uống rượu hoặc ăn thịt gì không nấu/nướng theo cung cách rất “đặc sản” của bổn Đạo… Thành thử, muốn trở thành “Halal” thịt của súc vật ấy phải được xẻ theo cách riêng biệt. Tức, loài thú bị xẻ thịt phải được cắt tiết; và người giết khi thi hành việc sát sinh phải hướng về Mecca và kêu tên cực trọng hoặc Allah hoặc Thiên Chúa.

Lò sát sinh nào chứng minh được là mình theo khuôn thức của Đạo Hồi, sẽ được cấp phép giấy hành nghề do giới chức trong Đạo cấp phát chứng nhận lò ấy có thể giết thú xẻ thịt để làm món “Halal”, theo cung cách rất bài bản. Khi thực hiện, người đạo Hồi chỉ ăn thịt “Halal” nào có phép tắc hẳn hòi, thôi.

Còn, người Công giáo thì sao? Có được ăn thịt thà thuộc loại này hay không? Để trả lời, việc đầu tiên nên hỏi là: Trong Kinh thánh có chỗ nào nói về chuyện này không? Thật ra, cũng có. Sách Tông Đồ Công Vụ, cũng đề cập đến việc Công Đồng Giêrusalem các thánh tông đồ và các đấng bậc đã gặp nhau bàn định xem có nên áp buộc các tín hữu ngoài Đạo vừa trở lại với Hội thánh Antiôkia không.

Ngoài ra, các thánh cũng nhấn mạnh: các tín hữu ngoài Đạo vừa trở lại đều được bảo “Hãy biết tự chế đừng nên ăn những gì đã tế hiến ngẫu thần; và cũng đừng uống máu ăn thịt thú nào bị xiết cổ cho chết rồi mới xẻ thịt(Cv 15: 29). Người Do thái cũng như các vị theo đạo Hồi vẫn coi máu thú vật là sự sống của loài thú; và máu mủ mọi loài thú đều phải đặt dưới quyền định đoạt duy nhất từ Đức Chúa mà thôi. Bởi thế nên, họ không ăn thịt loài thú nào bị xiết cổ để xẻ thịt, bởi thịt đó vẫn còn dính máu, tức ô uế.

Thế nhưng, tại sao các thánh Giáo hội tiên khởi vẫn theo tập tục của người Do thái, rất giống hệt? Để trả lời, cũng nên nhớ rằng: lúc ấy là thời khởi đầu của Đạo Chúa và đó cũng là thời kỳ mà các tín hữu Hội thánh tiên khởi vẫn còn sống. Phần đông các ngài là tín đồ Do thái giáo mới trở lại. Nên, nhiều vị vẫn thấy ghê mỗi khi nhớ lại thời kỳ mình còn kiêng cữ các loại thịt nào còn dính máu vẫn bị luật Do thái cấm đoán (x. Lv 17: 10tt.) Cũng có thể, các thánh vẫn cứ kiêng không ăn thịt heo hoặc thịt có dính máu trong thời gian dài, là bởi người Do thái chẳng khi nào nhúng môi vào thịt này.

Về thức ăn đã hiến tế ngẫu thần, thánh Phalô có lần viết:

“Vậy, về việc ăn thịt cúng, chúng ta biết rằng ngẫu tượng chẳng là gì trên thế gian, và cũng chẳng có thần nào ngoài Thiên Chúa độc nhất.” (1Cr 8: 4)

Dù sao, dân con Đạo Chúa thuở ban đầu vẫn còn yếu về đạo đức  chức năng, nên cứ nghĩ nếu mình ăn thịt gì có dính máu như thế ắt hẳn là có tội. Có vị tuy đã đồng bàn nhưng lại cứ nghĩ mình nên ăn kiêng như trước để không gây cớ vấp phạm hoặc có hành động trái với lương tâm, đạo đức. Thế nên, thánh Phaolô đã phải thêm:

“Nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã..” (1Cr 8: 13)

Vì lý do này mà Công Đồng Giêrusalem đã cấm cản tín hữu ngoài Đạo vừa trở lại không được ăn thịt gì đại loại như thế. Và vì thế, thánh Phaolô mới tóm tắt như sau:

“Không phải của ăn làm ta gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, ta chẳng thiệt thòi gì; dù có ăn, cũng chẳng lợi.” (1Cr 8: 8)

Ở chương sau, thánh Phaolô cũng gặp vấn nạn như anh/chị đặt ra hôm nay, tức vấn đề liên quan đến “Halal”, nên mới công bố như trước đó, rằng: chỉ ăn thịt ấy khi không thấy có vấn đề về lương tâm, thôi.

Vậy nên, để giúp tín hữu nên cẩn thận khi ra chợ mua thức ăn về mà không nắm chắc thịt ấy là thịt gì, chế biến thế nào, thánh Phaolô lại viết rõ ở đoạn khác:

“Tất cả những gì bán ngoài chợ, anh em cứ việc ăn, không cần phải đặt vấn đề lương tâm.” (1Cr 10: 25).

Và, để giúp dân con nhà Đạo biết phải làm gì khi được mời dự tiệc ở nhà người khác đạo, thánh nhân lại viết:

“Nếu có người ngoại nào mời anh em và anh em muốn đi, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề lương tâm.” (1Cr 10: 27)

Xem như thế, cũng nên áp dụng vào với trường hợp hôm nay khi có người đạo Hồi mời đi ăn. Tóm lại, rõ ràng Sách Thánh không có chương/đoạn nào cấm tín hữu Đức Kitô ăn thịt “Halal” do người ngoài Đạo Chúa thết đãi hoặc chế biến để bán buôn. Cả vấn đề thức ăn đã cúng thần nào khác cũng không áp dụng ở đây, dù có thành vấn đề với một số người. Nói thế là bởi: “Halal” là thực phẩm dâng cúng lên Allah, là Đức Chúa mà người đạo Hồi, Do thái giáo lẫn Đạo Chúa vẫn phụng thờ.” (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 30/1/2011 tr. 11)

            Như đã viết, hỏi chuyện ăn thịt súc vật ở đời mà lại hỏi đấng bậc chuyên tu trong Đạo, khác nào hỏi các vị khổ tu: có nên chăng ăn uống thả dàn, để “sống với đời”!
            Và như bần đạo có trả lời bạn bè về bê/bò xứ miền rất Nam Mỹ: nếu cứ tìm thứ gì nhất hạng trong ăn uống, chắc cũng phải mất rất nhiều ngày, tiền bạc và công sức. Chi bằng, ta cứ thủng thỉnh như người nghệ sĩ vẫn ca và cứ hát những là “thung lũng hồng” ở đây đó, có ca từ vẫn hát như:

                                    Còn nhớ, trên thung lũng này ru êm tình mềm.
                                    Giọt nắng, cho mây trắng về, cho trôi câu thề.
                                    Tìm mãi, trên thung lũng hồng hương yêu ngọt ngào.
                                    Người hỡi, cho ta suốt đời, một mình lẻ loi.”
                                    (Phạm Mạnh Cương – bđd)

            Kể về đồ ăn hay thức uống rất hấp dẫn loại “nhất thế giới, nhì Đông Dương”, bần đạo xin kể thêm giai thoại về cái “tôi đáng ghét” như thế này: hôm ấy, lang thang nơi xứ miền cực Nam nước Chilê, rất đê mê bên thủ phủ mang tên Punta Arenas, bần đạo gặp quán nhỏ của người Nhật Bổn có bảng hiệu ghi rõ: “Too Much” (tức: “Quá trời nhiều!”). Bèn vào thử xem có gì gọi được là “nhiều đến thế”? Nhiều thịt, nhiều cá hay sao mà ghê gớm vậy. Vào rồi mới biết: thứ gì cũng được chủ quán mang ra có tí xíu, rất gọn nhẹ, thanh thanh như người lịch lãm vẫn ăn kiêng. Thế mới biết: “Too Much” có nghĩa cũng in ít, điệu nghệ.
            Thế nên, mỗi lần nghĩ chuyện thịt thà/cá mắm, bần đạo đây luôn vẫn nhớ chuyện vui bên dưới để minh hoạ và minh chứng những lý luận “ăn cho lắm thịt thà mà làm gì”:

“Moskva vào những năm 1970. Mùa đông giá rét. Có tin đồn là ngày hôm sau cửa hàng bán thịt quốc doanh số 1 sẽ có thịt.

Ngay hôm đó, trước cửa hàng đã có hàng chục ngàn người với áo ấm, giày cao cổ, mang rượu và bàn cờ đứng thành hàng dài, không ngần ngại.

Đến 3 giờ chiều, người bán thịt đi ra và nói:
-Thưa các đồng chí,
Ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng: ta không đủ thịt bán cho tất cả mọi người vì vậy, xin đề nghị bàn dân Do Thái nên về nhà, mà xử lý.

Người Do Thái nghe thế, bèn nhẫn nhục ra khỏi hàng. Mọi người khác vẫn tiếp tục đợi.
7 giờ tối, người bán thịt lại bước ra và nói:
-Thưa các đồng chí, Ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng: hóa ra là không có thịt, vì vậy đề nghị bà con ta nên về nhà, mà lo tính.

Đám đông người mua bèn lố nhố ra về, vừa đi vừa lẩm bẩm/lầm bầm:
-Bọn Do Thái khốn nạn là thế mà sao lúc nào họ cũng gặp may!”
(x. Mười Chuyện tiếu lâm hay nhất thời Xô Viết, do báo The Times Anh Quốc bình chọn)

            Sự thật về thịt, có thể không hẳn là như thế. Hoặc, sự thật về chuyện thịt “halal” hay “thịt còn dính máu” đối với người theo Đạo Hồi chắc chắn là như thế. Có như thế, hay không như thế cũng đâu là vấn đề để bạn và tôi, bà con mình cứ thế mà suy tư nghĩ ngợi.
            Suy cho cùng, chỉ nên nói: gì gì đi nữa, thịt thà có “nhất thế giới nhì Đông Dương” hay không, hãy cứ thưởng thức đến khi nào không còn hưởng được nữa, mới thôi. Không hưởng và không ăn, nhất thứ vào Lễ Tro hoặc Thứ Sáu Tuần Thánh, rất ghi nhớ. Có ăn thịt hay không, dù thịt ấy là thịt bê mềm mại nhất thế giới hay “Halal” từ “thung lũng hồng” cũng còn tuỳ. Tuỳ chọn lựa của mỗi người. Có ăn hay không, dù thịt gì, cũng hãy làm để tôn vinh Chúa, trong mọi chuyện. Cả chuyện ăn và uống, rất hợp thời. Của con người.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Lâu nay tuy không còn ăn thịt
            dù thịt ấy có dính máu hay không
            vẫn thấy vui.
            Như bao giờ.    

                  
  
     
  



         

Saturday 21 January 2012

“Đêm có tiếng thở dài, đêm có tiếng ngậm ngùi,”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần Thứ Tư thường niên năm B 29.01.2012


“Đêm có tiếng thở dài, đêm có tiếng ngậm ngùi,”
Khu phố yên nằm, Đôi bàn chân mỏi, Trên lối về mưa bay.”

(Tùng Giang – Tôi Với Trời Bơ Vơ)

(Mc 16: 20)

            Đã chắc gì, tiếng thở ấy là thứ âm thanh mà bạn nghe được về đêm! Tiếng ấy, có thể là tiếng phì phào thở hắt ra ngoài, nhưng chắc không là tiếng thở hắt, một lần rồi đi đứt! Thật ra thì, có thở hắt ra hay hít dưỡng khí vào đã không nhiều mà lại là thở hắt, thì thôi chắc bạn và tôi, ta sẽ hết cả chuyện để phiếm, và để bàn. Bàn chuyện phiếm, nay chỉ nên nói về ba tiếng thở ngắn thở dài mang dấu ấn đề tài “Tôi với trời bơ vơ”, mà thôi.

            Kể cũng lạ, một đằng người nghệ sĩ vừa nghe có “tiếng thở dài”, lại thêm đôi câu hát:    



                                    “Đêm anh hát một mình,

                                    Ru em giấc mộng lành.

                                    Xin những yên bình,

                                    cho loài chim nhỏ,

                                    Cao vút trời thênh thang.”

                                    (Tùng Giang – bđd)



            Thôi thì, nay đêm nghe “tiếng thở dài” của ai đó cũng chỉ để “ru em giấc mộng lành” hay để có ước vọng lớn, cũng xin bạn và tôi, ta ngưng ngay những thở dài lai rai đến thở hắt hiu kẻo buồn chết đi được. Vâng. Nay, bần đạo chẳng muốn nghe tiếng thở nào dù dài hay ngắn, nhưng chỉ muốn nhắn bầu bạn qua câu hát:



                                    “Anh ru em ngủ

                                    không bằng những lời buồn anh đã viết

                                    Anh ru em ngủ

                                    Này lời ru tha thiết rộn ràng…”

                                    (Tùng Giang – bđd)



            Thật ra thì, chẳng biết: lời ru của bầu bạn có là “lời ru tha thiết” để bạn và tôi, ta “còn yêu thương loài người” nữa không thôi!  Duy, có điều chắc là: giòng chảy chữ nghĩa mà bần viết ở đây chỉ là “lời ru em ngủ” để mình ngon giấc, thôi.

Hơn nữa, sở dĩ bần đạo thốt lên điều này, vì nhiều bạn và nhiều cái tôi, đôi lúc vẫn thương bần đạo nên mới có ý kiến phản hồi rằng: “Chuyện phiếm của bạn là thứ mà cả tôi lẫn bà xã vẫn để đầu giường để ru… cho dễ ngủ, đấy nhé!”. Ấy chết! Chuyện phiếm của bần đạo, lại chỉ để ru bầu bạn cho dễ ngủ thôi sao?

            Vâng. Chính đó là “phát giác kinh khủng” mà bần đạo thỉnh thoảng vẫn nghe/biết. Thế nhưng, (lại chữ “nhưng” rất to đùng gì nữa đây!) giả như có phát giác nào khủng khiếp vốn lôi cuốn mọi người vào chốn ngủ vùi đầy chữ “nhưng” như truyện kể ở dưới để lấy hứng mà luận bàn về những dấu hiệu hoặc ám hiệu trong đời người để suy nghĩ cũng rất nên, như sau:



            “2 giờ sáng, có tiếng chuông điện thoại reo trong phòng ngủ của cặp vợ chồng nọ.

            Người chồng (C) nhấc điện thoại, người vợ (V) nằm im.

            C: Hello… Hello?

            Chồng cúp điện thoại, đinh ngủ tiếp nhưng chị vợ đằng hắng:

            V: Ai thế?

            C: Không biết. Chẳng thấy nói gì cả. Cúp máy.

            V: Sao lại cúp máy?

            C: Chắc gọi lộn số.

            V: Tại sao lại có người gọi lộn số vào giờ này nhỉ?

            C: Người ta gọi lộn số giờ nào mà chẳng được.

            V: Thế sao lại chọn số của mình mà gọi lộn chứ?

            C: Tôi không nghĩ là người ta chọn số của mình mà gọi lộn. Người ta chỉ gọi lộn...

            V: Chắc đây là ám hiệu quá.

            C: Ám hiệu gì? Ai đưa ám hiệu?

            V: Thì "bạn" của ông chứ ai vào đây nữa.

            C: Thằng cha đó đâu có phải là bạn tôi đâu mà bà nói vậy.

            V: "Thằng cha" đó không phải là bạn ông?

            C: Đúng thế.

            V: Thế mà ông nói là không nói gì cả.

            C: Đúng. Có nói gì đâu.

            V: Thế tại sao ông lại biết là "thằng cha"?

            C: Tôi có biết gì đâu.

            V: Ông vừa mới nói, "Thằng cha đó đâu có phải là bạn tôi".

C: Thì… nói vậy cho nó tiện thôi chứ đâu có phải là… đáng lẽ tôi phải nói là…"người ta…" … "Người ta không nói gì hết".

            V: Thế tại sao ông không nói như vậy?

            C: Tôi đâu có biết… Nếu nói thế thì đã không có chuyện với bà.

            V: Có phải đây nằm trong âm mưu của ông không?

            C: Âm mưu gì?

            V: Âm mưu làm cho tôi rối trí.

            C: Làm sao tôi làm bà rối trí được chứ?

V: Dễ quá mà… Ông dùng chữ "thằng cha" trong khi thật ra đó là "con mẹ"… Rồi ông lại đổi sang dùng chữ "người ta" để làm cho tôi rối trí…

C: Tôi bây giờ mới là người bị rối trí. Bà nói "con mẹ" nào?

V: Làm sao tôi biết được. "Con mẹ" đó là bồ của ông mà.

C: Không có "con mẹ" nào hết. Chỉ có người ta gọi lộn số mà thôi.

V: Thế con mẹ đó có đẹp đẽ gì không?

C: Con mẹ nào?

            V: Con mẹ bồ của ông chứ còn ai.

C: Bà ăn nói hàm hồ... làm gì có con mẹ nào... Người ta gọi điện thoại... lộn số... chỉ có thế thôi mà bà làm gì dữ vậy?

            Chồng đứng lên ra đóng cửa sổ một cái rầm.

            V: Lại ám hiệu gì nữa đó?

            C: Bà nói gì? Ám hiệu gì?

            V: Ám hiệu bằng cách đóng cửa sổ...

            C: Tôi đóng cửa sổ lại vì thấy lạnh.

V: Thế tại sao ông không thấy lạnh và đóng cửa sổ lại trước khi ông nhận được ám hiệu bằng cú điện thoại?

            C: Tôi không thấy lạnh trước khi nhận được ám hiệu.

            V: Thấy chưa. Tôi nói có sai đâu!

C: Để tôi nói cho bà nghe: Không có ám hiệu... mà cũng chẳng có con mẹ nào hết... chỉ có người nào đó gọi lộn số... và tôi đóng của sổ lại vì tôi thấy lạnh... Chỉ có thế thôi. Bà làm ơn đi ngủ đi cho tôi nhờ.

            Anh chồng với tay tắt đèn, miệng lẩm bẩm: "Trời đất quỷ thần!!!"

            V: Ông có chắc là con mẹ ấy thấy cái ám hiệu của ông không?

            C: Thấy cái gì?

            V: Cái đèn, bật lên bật xuống đó.

            C: Ai thấy?

            V: Tại sao ông lại hỏi tôi? Con mẹ bồ của ông chứ ai.

            C: (Thở dài) Thôi bà ơi, đi ngủ đi. Hai rưỡi sáng rồi.

            V: Sao ông biết là hai rưỡi sáng rồi?

            C: Coi đồng hồ thì biết chứ sao nữa?

V: Chứ không phải là con mẹ ấy nói trước với ông là nó sẽ gọi ông lúc hai rưỡi sáng hay sao?

            C: Con mẹ nào?

V: Con mẹ đứng ngoài kia chờ ám hiệu đóng cửa sổ và tắt đèn, mở đèn của ông chứ còn ai vào đây.

C: Thôi bà ơi... không có con mẹ nào hết... không có ai chờ ai hết... chỉ có người nào đó gọi lộn số thôi... bà nghe rõ chưa? Mà tại sao bà lại có cái ý tưởng là tôi léng phéng với con nào cơ chứ? Bà biết là tôi yêu bà đến thế nào mà... Có ai hiểu cho tôi không, khổ quá... Thôi đi ngủ đi, bà ơi!

V: Thôi... tôi xin lỗi ông... có lẽ là tại tôi ghen quá...

C: Có chuyện gì đâu mà bà phải ghen với tuông! Thôi đi ngủ đi... mai tôi phải dậy sớm đi làm...

V: Tôi... tôi xin lỗi ông...

            C: Thôi được rồi... đừng nghĩ đến những chuyện ấy nữa.

Chồng giả vờ ngủ. Vợ bắt đầu ngáy. Chồng nhẹ nhàng lật chăn sang một bên, đứng dậy, cởi bộ pijama trên người, để lộ bộ quần áo đã mặc sẵn, lấy mũ đội rồi rón rén ra cửa.

            Có tiếng súng lên cò. Chồng hết hồn quay lại.

            V: Ông mà mở cửa đi thì tôi bắn một phát nát thây ông cho mà coi!

            (Truyện kể trích từ hộp thư trên mạng, mới vừa nhận!)



            Kể truyện trên, người kể không có ý chứng minh rằng: sống đời người, vẫn luôn thấy “tiếng thở dài” không chỉ vào ban đêm mới thấy có, mà cả đến ban ngày cũng có luôn! Tuy nhiên, kể thế là để minh hoạ một cảnh tình hoặc tình thế trong đó người kể muốn nói rằng: sống đời thường ở huyện, người người vẫn muốn tìm ra ”ám hiệu” hay “dấu hiệu” nào đó nói lên căn tính của mình và của người, để vui thôi.

Sống đời đi Đạo, cũng có trường hợp nhà Đạo mình vẫn cứ coi động thái phụng vụ hay lời lẽ trong kinh kệ xem có dấu hiệu gì chứng minh là mình vẫn tin và yêu Chúa. Hoặc, chứng từ nào đó khả dĩ cảnh giác/cảnh tỉnh người đi Đạo hãy giữ vững niềm tin nơi Chúa là mục đích của đời mình.  

            Với một số bạn Đạo, có sự thể tương tự được nhà Đạo coi như “dấu ấn”/”dấu hiệu” chứng tỏ dân con Đạo Chúa, rất lành và rất thánh, vẫn đưa ra những câu hỏi tựa như câu của vị nữ lưu nọ gửi đến đấng bậc phụ trách mục giáo lý trên báo chí, như sau:

                       

Thưa Cha, con có câu hỏi tuy không khó giải quyết nhưng sao nó cứ làm con thắc mắc nghĩ mãi không ra. Số là, mới vừa đây, con được hân hạnh tham dự buổi hội thảo với đề tài nói về cuộc sống của người Công giáo trong đó có phần nói về việc đọc kinh cầu nguyện ở nhà thờ hay đâu đó, ta luôn bắt đầu bằng việc làm “Dấu Thánh Giá”, rất bình thường. Nhưng, không hiểu là bẵng từ lúc nào, số người thực hiện điều này đã vơi dần. Nghĩa là, làm như mọi người thấy khó chịu hoặc ngượng ngập khi phải làm “Dấu Thánh Giá” trước mặt người lạ, nhất là trước bữa ăn hay tiệc tùng đình đám, ở đâu đó. Đối với con, chuyện này khiến con ngạc nhiên không ít, vì truyền thống Giáo hội ta từ nhiều thế kỷ bỗng trong phút chốc nay bị lãng quên hay bỏ sót. Con nói thế có quá đáng không? Có cổ hủ hoặc bảo thủ không, thưa cha? Vậy thì, Hội thánh ta quan niệm thế nào về chuyện này, xin cho biết. Rất ghi ơn. (Câu hỏi trên không thấy ghi tên người thắc mắc)



            Hỏi, là hỏi thế, khác nào người nghệ sĩ ở trên tuy không hỏi, nhưng vẫn hát những lời rất lơ mơ, lờ mờ, vẫn hững hờ như:



                                    “Ai cho tôi một ngày yên vui

                                    Cho tôi quên cuộc đời bão nổi

                                    để tôi còn yêu thương loài người…”

                                    (Tùng Giang – bđd)



            Hát hay hỏi, là nói lên một tình tự, tuy không rõ nhuộm đặc mầu đen đặc hay trắng trắng. Nhưng, đã là tình tự thì có là tình rất tự sự của người trong/ngoài cuộc, hoặc có là tâm sự đời mình của ai đó, vẫn là điều khó mà diễn tả. Bởi, sự việc có khó tả cảnh tả tình, mới được chủ nhân “bầu tâm sự” gửi đấng bậc chuyên gia nhà Đạo để vấn ý, thì việc nào việc nấy cũng sẽ được giải đáp “thẳng rọt”, “xuôi rót” như sau:



“Bản thân tôi đã viết một bài riêng về lịch sử và ý nghĩa của việc lấy “Dâu Thánh Giá”, cách đây không lâu (x. Question Time, Connor Court 2008, câu 124), nhưng câu chỉ hỏi đã tạo cho tôi cơ hội để, một lần nữa, quảng diễn thêm tầm quan trọng của động tác nói lên lòng sùng Đạo của mình.



Thói quen làm “Dâu Thánh Giá” có từ thời xưa, vào thế kỷ đầu đời của Hội thánh. Như tôi nói trong bài viết hôm ấy, một trong các chứng cứ thành văn xuất từ tác giả Tertullianô hồi cuối thế kỷ thứ 2, đã khẳng định: “Mỗi khi đi đâu hoặc có công tác gì cần phải di chuyển, bước vào hoặc ra khỏi nơi thờ phượng, cả vào lúc xỏ giày chuẩn bị ra đi hay khi đi bơi đi tắm, cả khi ngồi vào bàn ăn lẫn lúc thắp nến, cả khi ngả lưng nằm nghỉ hay ngồi xuống ghế để hội họp, tức bất cứ việc gì khiến bận tâm lo lắng, ta đều làm “Dấu Thánh Giá” trên nơi trán trên ngực và ngang vai. Các thói quen ấy, không do qui luật nào ấn định trong Kinh Sách hết, nhưng thánh truyền vẫn khuyên chúng ta nên làm thế. Thói quen ta giữ và niềm tin trong Đạo vẫn giúp ta xác tín chuyện này.” (x.Tertullianô De Cor, Mil., 3).



Như Tertullianô nói, đây không là thói quen do Hội thánh buộc mọi người làm cho bằng là đó là cử chỉ do lòng mộ đạo của dân con Chúa vẫn thực hiện ở buổi đầu. Nhưng hỏi: đâu là lý do khiến các thánh duy trì thói quen ấy suốt nhiều thế kỷ, là gì?



Rõ ràng, các thánh thời Giáo hội tiên khởi vẫn công nhận rằng: thánh giá là biểu hiệu riêng tư đặc biệt của thánh hội mình. Nói cách khác, ngang qua thánh giá ta biết được rằng chính Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian và mọi người đều muốn dân con đi Đạo nhớ sự kiện có một không hai này. Với các ngài, thánh giá không là vật phẩm nhắc mọi người nhớ về cái chết nhục hình mà là sự chiến thắng quang vinh của Tình Yêu Thiên Chúa trên cả tội lỗi, nỗi chết và quỉ thần/sự dữ.



Các thánh tổ phụ thời trước coi thánh giá như biểu tượng của sự hiệp thông nối kết Đức Kitô đem đến qua cái chết và sống lại của Ngài. Các ngài quan niệm thanh dọc của thánh giá là sự nối kết trời với đất, còn thanh ngang tượng trưng cho sự kết hợp người Do thái với dân ngoại.



Chính vì lý do này mà các thánh thời giáo hội tiên khởi vẫn dựng thánh giá Chúa khắp mọi nơi, từ nhà riêng cho đến chốn phượng thờ, cả trên mộ phần người chết nữa, chỗ nào cũng ghi dấu Thánh giá ở trên đó.



Thánh Gioan Chrisostôm cắt nghiã sự việc này như sau: “Không ai thấy xấu hổ về dấu thánh thiêng ơn cứu độ là điều tốt lành trên hết mọi sự lành qua đó ta nhận ơn huệ sự sống rất hữu hiệu. Nói cho cùng, bất cứ nơi nào mình hiện diện, ta đều mang trong người trọn vẹn thập giá Đức Kitô như vương miện cao cả của đấng thánh. Thật sự, mọi thành tựu nơi ta đều ngang qua thánh giá. Cả khi ta tái sinh nên lành thánh, thì thập giá vẫn có đó. Khi nhận của ăn nhiệm mầu rất thánh, khi thực hiện công cuộc thừa tác rất thánh tiến, cũng như khi cử hành phụng vụ, nhất nhất đều là biểu hiện sự chiến thắng quang vinh của Chúa vẫn luôn hiện diện nơi ta. Điều đó cũng cắt nghĩa vì lòng sốt sắng mộ đạo mới khiến ta treo dựng thánh giá cả ở trong nhà, trên tường hoặc nơi cửa sổ. Điều đó cũng chứng minh lòng ta mộ đạo mỗi khi làm dấu thánh trên trán và trên tim mình. Chính đây là dấu hiệu của ơn cứu độ. Là, dấu chỉ sự tự do con cái Chúa. Là, dấu thánh tỏ bày lòng nhân lành Chúa đối với mọi người.” (X. Bài giảng Tin Mừng Thánh Mát-thêu đoạn 54, câu 4 )



Dấu hiệu của thập giá rất thánh lâu nay vẫn hiện diện khắp nơi trong nhà thờ. Ngay khi bước vào nhà thờ cũng như lúc rời khỏi nơi thờ phượng và cử hành phụng vụ, ta đều chấm nước thánh và làm dấu thánh giá. Và, mỗi khi cử hành bất cứ phép bí tích nhiệm mầu, ta cũng đều bắt đầu bằng việc lấy dấu Thánh giá hết. Khi rửa tội, vị chủ trì cũng như cha mẹ và vú bõ đỡ đầu thảy đều làm dấu thánh giá trên trán trẻ bé vừa chịu phép thanh tẩy. Nước rửa xối lên đầu trẻ bé cũng được thực hiện theo hình thánh giá và vị chủ trì buổi rửa tội, cũng xức dầu lên người của trẻ bé bằng hai động tác theo hình thánh giá có nhúng dầu thánh.



Khi cử hành thánh lễ, dân con tham dự vẫn thực hiện nhiều dấu thánh giá hơn nữa. Như, từ khi bắt đầu lễ cho tới khi chủ tế ban phép lành kết lễ và lúc nghe chủ tế công bố Tin Mừng của Chúa, người tham dự đều làm dấu thánh giá trên trán, trên môi miệng và trên ngực mình trước khi nghe. Và, phép lành kết thúc thánh lễ cũng được ban theo hình thức thánh giá trên người hoặc phẩm vật được làm phép.



Đằng khác, ta vẫn thấy thánh giá xuất hiện mọi nơi mọi chỗ: trên tường nhà thờ, cả bên trong lẫn bên ngoài chốn thờ phượng hoặc tại nhà riêng; trong túi áo, bao bị, cả trên chuỗi Mân Côi và vài nơi trên thế giới, ta cũng thấy thánh giá được dựng bên đường lộ, dọc các con sông nữa.



Thế nên, hãy tỏ lòng hân hoan vui sướng được đãi ngộ vì ta vẫn có thói quen làm dấu thánh bởi đây là dấu hiệu đồng hành với Hội thánh ngay từ thời tiên khởi. Bao giờ cũng thế, ta bắt đầu cầu nguyện bằng cách làm dấu thánh giá, cả khi nguyện cầu cảm tạ trên của ăn, lẫn giây phút ta ra vào nhà hoặc trước giây phút bắt đầu hành trình đi xa…



Cũng nên bảo nhau đừng ngại ngần/xấu hổ khi chứng tỏ niềm tin ta có với Chúa bằng việc làm dấu thánh giá trên của ăn, trong khách sạn, ở nhà hàng hay đâu đó trước bá quan thiên hạ. Nói cho cùng, ngay nơi công cộng, ở buổi thi đấu thể thao, ta vẫn thấy các cầu thủ/vận động viên vẫn làm dấu thánh giá trước mặt cả ngàn ngàn khán/thính giả cũng như triệu triệu người theo dõi truyền hình buổi đấu ấy.



Tắt một điều, dấu thánh giá là phù hiệu chính nói lên lý lịch cao sang của người theo Đạo. Là, biểu tượng chứng tỏ Đức Kitô toàn thắng lỗi tội và nỗi chết. Là, biểu tượng thánh thiêng chứ không là vật phẩm nhất thời hoặc cổ lỗ.” (X. John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 27/11/2011, tr. 10)



             Đúng là thế. Hỏi về dấu thánh giá mà lại hỏi đấng bậc cha cố rất nhà Đạo, khác nào tra hỏi bậc thày về giáo lý với sách phần! Các thứ ấy, đức thày nào cũng nằm lòng, chẳng sai một ly đi một dặm nào hết. Có chăng, chỉ nên hỏi: các đức thày có thực hiện việc tốt lành này ở chỗ tư riêng không, mà thôi. Riêng tư/tư riêng, là không cần chứng tỏ cho mọi người biết về triết lý rất thần học có từ ngàn trước đến ngàn sau.

            Nói về dấu thánh giá, chỉ là nói về dấu hiệu bên ngoài về thần học cứu rỗi được tóm gọm bằng câu tuyên xưng Ba Ngôi Đức Chúa rất hiện thực, cùng là dấu hiệu chứng tỏ lòng tin của mình, thôi. Nói cho cùng, có làm dấu hiệu gì đi nữa cũng chỉ đều như nói và hát. Nói như hát, vẫn nên chuyển đến mỗi người và mọi người những gì vui tươi, hồ hởi vẫn rất mừng. Nói và hát về thần học cứu rỗi, là đừng nói và hát những câu ca như sau:                   



                                    “Đêm hiu hắt lạnh lùng,

                                    Sầu thêm mắt muộn phiền

                                    Soi bóng đời mình bên giòng sông cũ

                                    Tôi với trờ bơ vơ!

Tôi với trời bơ vơ…”

                                    (Tùng Giang – bđd)



            Nói và hát, về thần học cứu rỗi bằng cử chỉ hoặc dấu hiệu trên con người, chỉ nên nói và hát những gì Chúa dạy ta làm thế với mọi người, như trình thuật thánh Máccô vẫn ghi:



                                    “Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi,

có Chúa cùng hoạt động với các ông,

và dùng những dấu lạ kèm theo

mà xác nhận lời các ông rao giảng.”

(Mc 16: 20)



            Nói cho cùng, có làm dấu thánh giá hay dấu gì đi nữa mà chẳng xác tín điều mình làm, thì cũng chỉ như người máy làm được mọi chuyện nhưng chuyện nào cũng không có hồn, chẳng tác dụng gì đến người làm hoặc người thấy. Làm thật đấy, nhưng chỉ công cốc, rất vô ích.

            Nói tóm lại, gì gì đi nữa, có làm dấu thánh giá hay “dấu lạ” với mình mình hoặc với người, cũng chỉ nên làm những động tác rất “ắt và đủ”, thôi. Nói theo ngôn ngữ người đời, là nói và bảo: hãy chỉ nên vừa đủ, cả khi làm lẫn khi vui. Như châm ngôn được bạn bè truyền nhau trên mạng, rằng:



                                    “Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn đượcngọt ngào.

Vừa đủ THỬ THÁCH để giữ mình luôn kiên cường.

Vừa đủ MUỘN PHIỀN để thấy mình thật sự là người.

Vừa đủ HY VỌNG để thấy mình Hạnh Phúc.

Vừa đủ THẤT BẠI để giữ mình mãi khiêm nhường.

Vừa đủ THÀNH CÔNG để giữ mình mãi nhiệt tâm.

Vừa đủ BẠN BÈ để bớt có cảm giác cô đơn.

Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng các nhu cầu cuộc sống.

Vừa đủ NHIỆT TÌNH để có thể đợi chờ trong hân hoan.

Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại!”

(trích điện thư từ bạn bè gửi rất nhiều, vào ngày 17/01/2012)



            Lại nói tóm, làm gì thì làm miễn là việc làm của bạn và của tôi, vẫn vì mục tiêu khiến mọi người vui tươi, hạnh phúc như Chúa dạy. Đó mới là vấn đề. Đó chính là mục tiêu của cuộc sống, rất thánh thiêng. Anh em.



            Trần Ngọc Mười Hai

            Vẫn xin mình xin người

            chớ đặt nặng những dấu bên ngoài,

            nhưng hãy chỉ quan tâm đến  

điều Chúa nhắn nhủ vào giờ cuối,

thế thôi.