Sunday 29 October 2017

“Mắt môi đây, xin em đừng chờ”.



Chuyện Phiếm đọc trong tuần 29 thường niên năm A 22/10/2017

“Mắt môi đây, xin em đừng chờ”.
Chiếc hôn kia mong em từng giờ
Ngón tay kia xin chớ hững hờ.
Dắt nhau đi về trong đợi chờ.”
(Lê Hựu Hà – Hãy Yêu Như Yêu Lần Đầu)

(Mt 19: 10-12)

Đang yêu nhau, mà sao anh lại cứ ới gọi và nhắn nhủ những câu như: “xin Em đừng buồn!” “Cho em quên đi ngày dài”, “Với bao đêm suy tư miệt mài” và rồi cứ thế, và cứ thế, anh cứ khuyên và vẫn răn, bằng câu hát rất thêm thắt như sau:
 
“Hỡi em yêu, xin em đừng buồn.”
Có đôi khi anh hay giận hờn. “
Để cho em quên đi ngày dài.
Với bao đêm suy tư mệt mài

Biết bao ngày đã qua.
Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng.
Rơi rụng dưới mái hiên nhà.

Người sao chưa đến với ta.
Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha.
Mộng sưa cũng vơi theo tháng ngày.

Hãy cho nhau môi hôn nồng nàn.
Ngỡ mai sau duyên ta muôn màn.
Sẽ không ai cho ta vội vàng.
Mới yêu đây nay sao phủ phàng.

Hãy yêu nhau như chưa yêu lần nào.
Hãy cho nhau yêu thương ngọt ngào.
Hãy đưa nhau về nơi cuối trời.
Dắt nhau đi cùng nhau trọn đời.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Quả có thế. Suy tư miệt mài, suốt ngày dài, dù “biết bao ngày đã qua” và những “chiều xót xa” ngồi đếm “những giọt nắng” “rơi rụng dưới mái hiên nhà”, vân vân và vân vân.

Vâng. Đúng như vậy. “Hãy (cứ) yêu nhau như chưa yêu lần nào”. “Hãy (cố) đưa nhau về nơi cuối trời” và rồi “Dắt (dìu) nhau đi cùng nhau (cho) trọn đời”. Ôi chao. Là ý-tứ của thi-ca với âm-nhạc. Ối chà, là ý-tưởng của người đời, với tình yêu.

Tình yêu trong đời, luôn có những mặt sáng chói, chiếu dọi lòng người ở khắp nơi. Dù, con người có ra chai đá đến thế nào đi nữa cũng vẫn còn yêu và cứ yêu. Yêu cho đến chết dù chỉ được sống với nhau, bên nhau theo cách nào đi nữa. Dù, đó có là sống “vầy vậy” hay sống theo cặp có hôn nhân/hôn-thú chính-thức hay không.

Tình yêu đôi lứa, có “vầy vậy” hoặc vẫn sống theo cặp chính-thức như hôn-nhân/hôn-phối hay không, lại vẫn trở-thành vấn-đề thời-thượng, rất hôm nay.

Vấn-đề thời-thượng của người hôm nay, lại đã kích-bốc/nổi lên như diều trên nhiều trang giấy, khiến bạn và tôi không thể không nghĩ đến và không thể không bàn cho ra nhẽ. Vấn-đề, vẫn là những vấn và đáp cho thật nhiều để rồi trở-thành đề-tài bàn thảo suốt nhiều kỳ như ở thị-trường chữ nghĩa của Úc, mấy hôm rày.

Thị-trường Úc, hôm nay, có tác-giả tên là Xavier Symons từng đặt tiêu-đề nổi cộm lại hỏi rằng: “Sao ta lại cứ bất đồng ý kiến về hôn nhân đồng-tính đến là thế?

Và, ông đã viết gần 5 trang giấy đặt vấn-đề đại để những bảo rằng:

“Tranh-luận về hôn-nhân đồng-tính lâu nay khiến người Úc nổi quạu hơn một thập-niên. Thế nhưng, lời lẽ trong tranh-luận chưa bao giờ huyên-náo như hôm này. Cả phía đối-lập cùng giới ủng-hộ cho hôn-nhân đồng-tính đều nhất-trí với nhau ít nhất điều này: quyết-định là do người trả lời cho cuộc trưng-cầu-dân-ý đều bao-hàm chuyện căn-bản cho xã-hội và văn-hoá Úc.

Người bầu phiếu nói tiếng “Không”, tức: không ủng-hộ hôn-nhân đồng-tính lại đã biện luận rằng: quyền-tự do căn-bản về tôn-giáo sẽ bị đe-doạ trầm-trọng nếu như định-nghĩa hôn-nhân bị thay-thế. Và những người trả lời tiếng “Có”, tức nhất-trí ủng-hộ cho hôn-nhân đồng-tính lại thấy đây là sự sống còn tồn-tại trong việc loại bỏ thành-kiến xã-hội và hành-vi thù-địch với thành-viên cộng-đồng cùng một giới-tính…” (X. Xavier Symons, “Why can’t we agree on same-sex marriage?” Deep currents within our culture keep the opposing sides from communicating with each other, MercatorNet.com 25/9/2017)

Bầu phiếu “Không” hay “Có” cho lắm, người bầu cũng bị rơi vào tình-huống rối bời vì chính mình không nắm được thực-tế của đời người đang diễn-tiến. Diễn-tiến cách xuôi chảy hay khập-khiễng, vẫn là tình-trạng cố-hữu thường xảy ra khi xã-hội người đời đang bị kích-bốc đến khó xử.

Và hôm nay, chuyện khó xử còn thấy thể-hiện ở nhiều địa-hạt và cuộc đời con người. Rõ nhất là, các địa-hạt có liên-quan đến chuyện Đạo, việc đời thời hôm nay. Chính vì thế, mà hôm nay lại thấy có độc-giả gửi thắc mắc đến đấng bậc chuyên giải-đáp trên tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney như sau:

“Thưa Cha
Nay thì cuộc trưng-cầu dân-ý về vấn đề hôn-nhân đồng-tính đổ lên đầu mọi người, đà thấy rõ. Có thể nào xin cha tóm tắt các biện-luận có lợi cho hôn-nhân theo truyền-thống cũ, để rồi con đây hiểu rõ được đôi chút?”

Hỏi như thế, thì có đấng bậc nào lại không trả lời/trả vốn cho ra lẽ. Cái lý lẽ mà phần đông người thời nay lại cứ để quên ở đâu đó, xa con tim. Hỏi như thế, chắc chắn là đấng bậc sẽ lấy giấy bút ra mà trả lời, ngay lập tức, rất như sau:

“Cuộc Trưng Cầu Dân Ý vừa qua, là để người dân Úc có cơ-hội nói lên tiếng nói của mình về vấn-đề quan-trọng mà bất cứ xã-hội nào cũng phải đối đấu. Đó là: bản-chất rất thực của hôn-nhân.

Và, cùng với vấn-đề này, là gia đình. Hôn-nhân và gia-đình, là khúc xương trụ cột của xã hội. Gia-đình tiến đến đâu, thì rồi xã-hội cũng tiến đến đó.

Nếu gia-đình vững-mạnh và bậc mẹ cha đoàn-kết với nhau, thì con cái sẽ tăng-trưởng mà học cách thương-yêu và được yêu-thương. Con cái học-hỏi về các đặc-trưng của xã-hội như: sống tử tế, ăn ở rộng lượng, biết thứ tha và sống thật-thà rồi đem các đặc-trưng/đặc-thù của đời sống mình học hỏi vào với cộng-đồng rộng lớn hơn.

Xã-hội sẽ nên lành-mạnh, nếu gia-đình ăn ở đàng hoàng. Nhưng, nếu gia-đình lục-đục thì toàn xã-hội cũng sẽ khổ-đau. Bởi thế nên, cuộc Trưng Cầu Dân Ý vừa rồi có tầm quan-trọng, thật thiết-yếu.

Vậy, đâu là vấn-đề chủ-chốt trong tình-hình hôm nay? Có tất cả 6 điềm ta cần phải xem xét kỹ.

Thứ nhất, và cũng là sự việc quan-trọng nhất, đó là khẳng định: chúng ta không hề chống-đối sự việc những người đồng-tính luyến-ái quyến rũ nhau sống gần gũi, chung đụng. Họ là những con người giống bất cứ ai khác. Họ đều được cứu-rỗi nhờ Đức Giêsu Kitô đã chịu chết để cứu chuộc họ.

Và, thiên-đường vẫn chừa chỗ chờ đợi họ gia-nhập cùng với mọi người, miễn là họ sống/chết tốt lành, hạnh đạo. Ta luôn có bổn-phận phải yêu-thương và tôn-trọng hết mọi người trong họ. Những người như thế, có thể là bậc con cháu, anh em/chị em ruột thịt với ta hoặc bạn bè/người thân, hoặc như đồng-hương/đồng-nghiệp, vẫn rất gần.

Thứ hai là, hôn-nhân, tự bản-chất, luôn là sự phối-kết giữa nam-nhân và nữ-giới đưa con cháu đi vào hiện-diện với thế-giới. Ta không thể đổi thay chuyện này, được. Đó, chính là sự việc xảy đến như thế và đó cũng là lý-do khiến mọi quốc-gia trên thế-giới đều có luật-lệ để bảo-vệ hôn-nhân. Còn, việc phối-kết giữa hai người đồng phái-tính, tự nó, lại không thể tạo nên con trẻ được.

Nói đơn-giản, thì: đây không phải là hôn-nhân. Nên, không không thể có “hôn-nhân đồng-quyền” giữa hai người nam hoặc hai người nữ cùng phái-tính. Một đằng thực-sự là hôn-nhân, còn đằng kia thì không phải.

Thứ ba là, đi đầu phiếu nói tiếng “Không” với hôn-nhân đồng-tính, không là hành-động kỳ-thị chống lại người đồng phái-tính quyến rũ ăn ở với nhau, chút nào hết. Cũng hệt như bậc cha mẹ không thể lấy con cái của mình làm vợ làm chồng mình được.

Cũng hệt thế, anh em/chị em cũng không thể lấy nhau làm vợ làm chồng, thì rõ ràng là: hai người cùng phái-tính cũng không thể làm đám cưới ăn ở với nhau thành cặp phối ngẫu đồng phái-tính được.

Hai người đồng phái-tính có thể yêu thương nhau, nhưng mối tương-quan yêu-thương ấy không có nghĩa-là hôn-nhân thực-thụ bao giờ hết. Nói như thế, không có nghĩa là ta kỳ-thị họ; nhưng đúng hơn, ta chấp-nhận một thực-tại vẫn đặt nền-tảng nơi bản-chất con người.

Thứ tư là, nỗi-niềm phúc-hạnh của con cái sẽ gặp hiểm nguy. Có rất nhiều công-trình nghiên-cứu/khảo-sát cho thấy: trên hết mọi sự, con trẻ được nuôi theo cùng phái-tính, trên thực-tế lại đạt kết-quả tồi-tệ về mọi mặt, nếu ta so sánh với các trẻ bé do chính cha mẹ chúng nuôi nấng giáo-dục.

Nói cho cùng, thì nếu ta đem con cái ra khỏi môi-trường gia-đình không để cho bậc mẹ cha của chúng nuôi nấng, thì trẻ bé sẽ bị thiệt-thòi vô kể, dù trẻ bé ấy được thương-yêu/chiều-chuộng cách nào đi nữa, cũng thế.

Tình thật mà nói, nhiều con em của các cặp vợ chồng khác phái-tính, nếu cuối cùng đi đến tình-trạng chỉ có một trong hai người hoặc bố/hoặc mẹ nuôi-dưỡng thôi khi một trong hai vị này chia tay/quá vãng, thì con cái mới đi đến kết-quả là chúng phải chịu đau khổ, thôi. Nhưng, ta không thể lấy việc này tạo thành tiêu-chuẩn chung để mọi người noi theo.

Thêm vào đó, mức-độ bền-bỉ nói chung của các mối tương-quan giữa hai người đồng phái-tính thường kéo dài chỉ trong vòng hai hoặc ba năm là cùng. Vậy thì, đâu là điểm tốt lành cho con cái họ đây?

Thứ năm là, các giá-trị khác cũng sẽ phải chịu cảnh hy-sinh, bị loại bỏ nếu như chính-quyền hợp-thức-hoá hôn-nhân đồng-tính. Mới đây, ta đều thấy điều ấy trên truyền-hình của Úc vào ngày “Nhớ Ơn Cha” hồi tháng 9/2017 trên màn hình nhỏ có người cha hát bài “Con chuột túi”cho con mình nghe, nhưng ông phải ngưng nửa chừng vì bài hát bị coi là nghiêng về chính-trị, cũng hơi nhiều.

Nay hỏi rằng, ta đang đi về đâu đây? Chừng nào thì mọi người sẽ không còn mừng lễ “Nhớ Ơn Cha” hoặc “Ngày Mẹ Hiền”, nữa đây? Và tương-lai mai ngày, khi bé em chào đời, rồi cũng chẳng có ai bận tâm ghi tên cha/tên mẹ của bé lên giấy khai-sinh nữa. Thay vào đó, họ chỉ ghi: Cha số 1, mẹ số 2, như nhiều nước đang làm thế.

Hiện-tượng này, đã gây tổn-hại cho hai bên, cả người cha cũng như người mẹ hiền của mình, nếu ta đi đến hợp-thức-hoá hôn-nhân đồng phái-tính. Đó là chưa kể Chương-trình “An Toàn Trường Lớp” nhằm nhắc nhở con trẻ biết: hôn-nhân đồng phái-tính là chuyện tốt lành, bình thường (?)

Điều thứ sáu, ta thường thấy xảy ra ở một số nơi trên thế-giới và cả Úc này nữa, người người lại cứ nói đến tự-do tôn-giáo, tự-do ngôn-luận để bênh-vực cho hôn-nhân truyền-thống và chuyện những người có quyền dựa vào lương-tâm mà từ-chối hợp-tác hoặc tham-dự lễ cưới giữa hai người đồng phái-tính, đó mới là vấn-đề. Và, có khi còn bị phạt nữa. Toàn thế-giới mới đầy quả-cảm, đang ở đâu đó quanh ta.

Thế nên, cuộc Trưng Cầu Dân Ý ở Úc hồi tháng 9/2017 là sự-kiện quan-trọng cho tương-lai đất  nước này, rất cần-thiết. Điều nguy-hiểm, là: sự sống tốt lành trong xã-hội đang trở-thành vấn-đề. Ta không được thay đổi luật vì lợi-ích của nhóm người rất ít oi.

Tại Canada, sau 10 năm hợp-thức-hoá luật hôn-nhân đồng phái-tính, chỉ mỗi 24% cặp phối-ngẫu như thế mới ra mặt đăng ký, thôi. Và, hậu-quả đến với nhôn-nhân/gia-đình, với con cái, xã-hội nay rất lớn. Bầu phiếu để nói tiếng “Không!” với hôn-nhân đồng phái-tính, tức: đã bầu “Có!” cho gia-đình và xã-hội, vậy.” (X. Lm John Flader, Same Sex Marriage’s collateral damage goes in all directions, The Catholic Weekly, Question Time 24/9/2017, tr. 25)

Nghĩ gì thì nghĩ, Bầu gì thì bầu. Lập-trường nói “Có!” hoặc “Không!” với người mình thương mến, sẽ mãi trở thành đề-tài để ta suy nghĩ.

Thế nên, nay đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta hãy về lại vườn thượng uyển có Lời Vàng thánh-nhân khi xưa từng khuyên-nhủ, rằng:

“Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,
thì thà đừng lấy vợ còn hơn."
Nhưng Ngài nói với các ông:
"Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,
nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.

Quả vậy, có những người không kết hôn
vì từ khi lọt lòng mẹ,
họ đã không có khả năng;
có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;
lại có những người tự ý không kết hôn
vì Nước Trời.”
(Mt 19: 10-12)

Vậy nên, nhiều người những tưởng: đấng bậc của ta trả lời như trên cốt cho xong chuyện. Nhưng, đấng bậc nhà Đạo mình, vốn dĩ chọn lựa đời đơn-độc, đôi lúc cũng thấy khó. Khó nhiều thứ, chứ không phải chỉ mỗi chuyện hôn-nhân, hôn-phối hoặc hôn-lễ như nguyên-tắc ở nhà Đạo.

Thôi thì, đời người xảy ra cũng nhiều chuyện bất-ưng về nhiều mặt. Chí ít, là mặt đạo-đức khiến nhà Đạo hôm nay phải cân-nhắc từng tí, cho dễ sống. Cân và nhắc, vẫn gặp nhiều trục-trặc trong đời người đi Đạo, khá là phiền hà.

Thôi thì, để hiểu cho sát các tình-huống trong đời, hôm nay, chi bằng ta đi vào vùng trời truyện kể để minh-hoạ cho một cuộc sống rất hôn-nhân như sau:

Ông nằm xích vào tôi cho ấm. Chà, đêm nay đài lại báo gió muà đông bắc. Cũng may tuần trước thằng con nhà Toạ sang che giúp cái đầu hồi không thì mưa cứ thông thốc, trong nhà chẳng khác gì ngoài sân. Nói vậy thôi chứ “nhà tình nghĩa” được thế này là quá tốt rồi ? Năm ngoái thật nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ mình có chỗ chui ra chui vào tường xây, mái lợp.

Ngày xưa, hồi mới ăn ở với nhau, ông chẳng nói:
”Rồi tôi sẽ xây cho bà cái nhà ngói.”

Ấy thế rồi ông cứ đi biền biệt có lúc nào ở nhà cầm cái mai mà sắn lấy cục đất làm gạch. Tôi cứ nằm trong túp lều nát mường tượng ra ngôi nhà ông sẽ xây. Nó phải ở trên cái nền thật cao mới trụ được giữa vùng chiêm trũng. Rồi một gian đồ thờ và tiếp khách, một gian ngủ và quây cót thóc. Hai bên mái ông đặt cho tôi ống máng dẫn nước mưa vào bể chỉ dành riêng quanh năm ông uống trà. Tôi cũng muốn cái sân ông phải lát gạch đinh cho thật chắc. Ngập lụt cách mấy, nuớc rút đi nó vẫn còn đó. Thế rồi mình cũng phải đào cái giếng thật sâu lấy nước thật trong...

Ấy đấy , mải nghĩ chuyện nhà chuyện cửa quên khuấy mất lọ dầu gió chiều nay để lẫn vào đâu. Cứ phải trữ sẵn bên mình, nửa đêm ông ho xù xụ còn có cái mà xoa.

Bà Binh lập cập chui khỏi màn, tra chân vào đôi dép mòn. Bà mò mẫm ra bàn châm đèn soi khắp gầm giường, gậm tủ. Làn gió lạnh buốt lọt qua khe cửa làm bà rùng mình. Gió muà đông bắc về thể nào gần sáng ông cũng thức giấc.

Tội nghiệp, chiều nay định nhờ con mẹ Đà mua mớ cá trê nấu dưa đổi món cho ông, líu tíu thế nào quên mất mãi tới khi nó đi chợ về mới nhớ ra, lại đành rang mớ tép khô với vài lát khế chua. Ấy thế mà chiều nay bà cũng xới được cho ông ba lưng cơm kia đấy.

-Ông ăn đi...”, bà thì thào,
-Ăn đi cho ấm bụng mới chống được rét...”. 

Bà xúc cho ông những con tép vàng, lát khế xanh xanh, rồi cổ tắc nghẹn, thương ông bà chẳng nuốt được, nước mắt chan đầy bát cơm. Khốn nạn, cả đời ông có mấy khi được ăn miếng thịt, hoạ may chỉ dịp giỗ tết, còn thì cứ rau dưa kéo đều. Ấy thế mà chẳng bao giờ ông hé răng than vãn. Đi làm xa, được đồng nào chỉ nhăm nhăm gửi về cho vợ, điếu thuốc hớp rượu có bao giờ ông động tới.

-Để rồi, tôi mua cho bà cái áo len...
-Để rồi, tôi sắm cho bà đôi giày vải...

Cứ thế, chẳng bao giờ ông sắm cái gì cho riêng ông. Ôi vợ chồng, càng nghĩ càng mặn nồng lai láng, giòng sông trước mặt có chảy đi hết nước, cũng chẳng bằng tình thương ông chảy vào bà.
Thế rồi chiến tranh...thế rồi xa cách...Biết bao đêm bà cầu khấn cho ông không đạp bom bi, không trúng rocket, không sốt rét ngã nước, không cảm cúm phong hàn ...

-Con cắn rơm cắn cỏ, con khấu đầu cầu xin đức Phật từ bi phù hộ độ trì....
Trong những đêm vắng vẻ, người đàn bà cầu xin, cầu xin . Và rồi dường như đức Phật đã thấu lòng, vào một chiều đông chồng bà đã trở về...trở về trong tờ giấy báo tử nhàu nát cùng chiếc ba lô con cóc đã bạc cả màu. Từ lúc đó bà như người sống trong cõi khác.

-Ông đã về đấy ư? Tôi đã bảo mà! Sớm muộn thế nào ông cũng về, suốt năm vừa rồi, tôi đã trữ được một chum tương đầy, gầy được bày vịt và hạ thổ được hũ rượu thuốc. Bồi dưỡng thật lực cho sức vóc ông bốc lên còn xây nhà cho tôi. Ông còn nhớ ngôi nhà ấy chứ, ngôi nhà tôi với ông đã bàn nhau nát nước, nát cái những đêm thức trắng trong túp lều rách. 

Gió lại ù ù trên mái. Mùa đông đã về thật rồi. Về trong ngôi nhà nhỏ, về trong lòng bà Binh. Có tiếng lạch cạch cửa.
-Ai thế ?
Không phải, gió đây. Có tiếng gì trong góc bếp.
-Ai vậy? Không phải, chuột đấy.
Bà quờ quạng quanh bà.
-A...lọ dầu...lọ dầu đây rồi!

Nhưng bà chưa leo lên giường vội, bà mò mẫm ra trang thờ, lập-cập thắp nén nhang. Đôi mắt ông nhìn bà từ trong tấm hình bọc kính.
Ông nói:
-Thôi, ngủ đi, bà ơi...”
(Tản văn của Nhật Tuấn)             

Giống hệt truyện kể, nay ta cùng vững tâm mà sống hùng/sống mạnh dù người đời đi Đạo có đổi thay lập-trường sống của họ đến thế nào đi nữa.

Nghe kể thế rồi, nay ta vững tâm mà hãnh-diện và rồi, đầu cao/mắt sáng, cứ hát vang các ca-từ  đẹp vừa trích dẫn, mà rằng:

Biết bao ngày đã qua.
Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng.
Rơi rụng dưới mái hiên nhà.

Người sao chưa đến với ta.
Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha.
Mộng sưa cũng vơi theo tháng ngày.

Hãy cho nhau môi hôn nồng nàn.
Ngỡ mai sau duyên ta muôn màn.
Sẽ không ai cho ta vội vàng.
Mới yêu đây nay sao phủ phàng.

Hãy yêu nhau như chưa yêu lần nào.
Hãy cho nhau yêu thương ngọt ngào.
Hãy đưa nhau về nơi cuối trời.
Dắt nhau đi cùng nhau trọn đời.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Mong rằng, lời ca tiếng hát ở trên sẽ là nguồn hứng-thú để bạn và tôi, ta vui sống những ngày còn lại trong đời. Dù, cuộc đời có đổi thay. Dù, lòng người có ra thế nào đi nữa, cũng cứ mặc.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ mặc mọi người
từng đổi thay/thay đổi quan-niệm sống
thì tôi đây vẫn thân-thương,
trân-trọng
Hết mọi người.


Sunday 22 October 2017

“Ngày ấy em như hoa sen”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần 28 thường niên năm A 15/10/2017

“Ngày ấy em như hoa sen”
Mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên,
Ngày ấy em như sương trong,
Nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.”
(Trần Ngọc Sơn – Hạnh Phúc Lang Thang)

(1 P 2: 19-212)

“Em như hoa sen ngày ấy”, ư? Nói thế phải chăng hơi quá đáng? Bởi, hoa sen chỉ đẹp ở chốn bùn lầy nước đọng mà thôi. Còn em đây, đâu đến thế? Thôi thì, bạn và tôi ta cứ hát những ca-từ như bên dưới có lẽ lại hay hơn:

“Ngày ấy em như cung tơ,
Cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,
Ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình,
Mà lòng người cũng vô tình,
Rồi mộng úa thay màu xanh,
Người yêu xa bến mộng,
Đò xưa đã sang sông,
Dòng đời trôi mênh mông,
Dáng xưa nay xa rồi,
Đường khuya mưa rơi rơi,
Phố xưa quên một người,
Bàn chân gieo đơn côi,
Gió mang theo cơn lạnh
Về rót lệ trên môi.”
(Trần Ngọc Sơn – bđd)

Vâng. Có lẽ là như thế. “Nhưng năm tháng vô tình, Mà lòng người cũng vô tình, Rồi mộng úa thay màu xanh…” Ôi thôi, đời là thế. Đấy này, lòng người là như vậy. Như thế và như vậy, cũng chỉ là tình người ở đời, mỗi thế thôi.

Vâng. Tình đời là như thế. Cũng vẫn là vần thơ “Bàn chân gieo đơn côi”. “Gió mang theo cơn lạnh, về rót lệ trên môi.”

Vâng. Người đời là như vậy. Vẫn cứ “Yêu em say mê”, Nhưng “tình ái không xanh như thơ”, hệt như ca-từ còn diễn tả, ở bên dưới:
 
“Ngày ấy yêu em say mê,
Tôi nào nghĩ gì đến câu từ ly
Tình ái không xanh như thơ,
Đến chung hơi thở, rồi trôi rất xa.

Hạnh phúc lang thang như mây,
Cho hồn héo gầy, khi ta còn đây,
Từng đêm qua trong giấc mơ,
Vẫn mong chờ có em về.”
(Trần Ngọc Sơn – bđd)

Vâng. Thế đó là âm nhạc. Thế nhưng, cuộc đời thường nhật có giống như thế không? Chí ít, là sau khi bạn và tôi phát-giác ra điều gì đó ở trong người? Phát giác rồi mới thấy rằng “cuộc sống bây giờ là hai mặt của một vấn-đề”, như tác-giả “tự truyện” ở bên dưới kể lại cho người đọc nghe những điều như sau:  

Đừng nghĩ bạn còn cả cuộc đời để sống'
Mắc ung thư giai đoạn cuối, Scott Riddle đau xót vì không thể chứng kiến ba con lớn lên, và không biết cuộc đời phía trước sẽ thế nào. 

Scott Riddle là nhân viên 35 tuổi của Google ở Sydney, ông bố của ba đứa con, tám tháng tuổi, ba và năm tuổi. Ba tuần trước, anh nhận được tin mình bị ung thư ruột già giai đoạn cuối.

Anh đã chia sẻ câu chuyện của mình trên trang cá nhân và không ngờ có hơn 70.000 người đọc. Scott đưa ra thông điệp, khiến nhiều người phải suy ngẫm: "Bạn đừng nghĩ rằng mình còn có cả cuộc đời để sống".


Dưới đây là trích lược những chia sẻ của Scott Riddle:

"Chỉ ba tuần trước, mọi thứ vẫn tuyệt vờicho đến khi tôi nhận thấy thinh thoảng máu chảy bất thường và có một số thay đổi về thói quen đường ruột. Bác sĩ  còn không nghĩ đó là ung thư và nói chỉ cần khám nội soi. Nhưng tôi đã làm thêm một số xét nghiệm. Khi biết mình đang mắc ung thư ruột già giai đoạn cuối, tôi cảm giác như một con sóng đang ập tới.

Trong sáu tháng tới, tôi sẽ tiến hành hóa trị và có hai cuộc giải phẫu, cắt bỏ phần ruột và loại bỏ hai khối u từ gan. Điều này đối với một người chưa bao giờ bị bệnh nặng là một nỗi ám ảnh cực kỳ lớn. Cuộc sống có thể thay đổi chỉ sau một đêm.

Đột nhiên, tôi không thể chắc chắn có thể tham gia sinh nhật thứ năm của con trai, và có lẽ cũng sẽ chẳng tham dự được ngày kết hôn của con gái lớn. Tôi có lẽ sẽ không biết những gì con tôi muốn thay đổi. Tôi cũng đang phải vật lộn với những suy nghĩ tôi sẽ trông thế nào trong tương lai, cuộc sống sự nghiệp.

Nếu tôi có thể sống sót qua việc này, chắc tôi khó có thể trở về thế giới cũ của mình, vì quan điểm sống của tôi đã thay đổi cơ bản. Cuộc sống bây giờ là hai mặt của một vấn đề. Một mặt tôi phải lạc quan, phải tin rằng mình có thể đánh bại căn bệnh ung thư này. Mặc khác tôi cần chuẩn bị cho một kịch bản khi phẫu thuật không thành công, và tôi sẽ được cho biết: tôi còn bao nhiêu thời gian để sống.

Là chồng và cha của ba đứa trẻ, kịch bản đó rõ ràng đáng sợ, nhưng là một thực tế tôi cần chuẩn bị. Tôi có nhiều thông điệp muốn gửi tới mọi người, từ câu chuyện của tôi, từ tầm quan trọng của những chuyến thăm khám bác sĩ định kỳ.

Hãy đặt những vấn đề thực dụng sang một bên, dừng ngay ý nghĩ bạn còn có cả cuộc đời, để làm bất cứ việc gì bạn muốn. Và dĩ nhiên bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng những điều tồi tệ sẽ xảy ra với bạn. Nhưng hãy để tôi nói với bạn: mọi điều có thể xảy đến bất cứ lúc nào, nó có thể lấy đi tất cả mọi thứ. 

Vì thế, bạn hãy luôn nhớ những điều đó trong tâm. Và xin vui lòng, ngừng phàn nàn về những điều nhỏ nhặt" (Đề nghị, trích từ bài viết ở trên mạng)

Và, đề nghị trên vẫn luôn là những cảm-nhận, ta có được sau những giây phút suy-tư về đời mình và đời người. Đề-nghị này, thật đúng để ta áp-dụng từng ngày/giờ, chí ít là khi có những tư-duy này/khác vẫn thấy xảy đến với mọi người trong Đạo, như sau:

“Nhìn vào nhà Đạo, ai cũng thấy dân con Đạo Chúa hôm nay có cả hai hình thức sống là nói và làm. Nhiều lúc, ta chỉ nói và nói, chứ không làm. Lại có lúc, ta vẫn làm nhưng chẳng nói, dù một lời. Điều này làm mọi người nhớ đến nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thật. Có hợp tác.

Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

Đi vào thực tế, giống câu truyện ở nhà thờ xảy ra vào cuối thánh lễ, các vị chủ tế có thói quen ra đứng ở cuối nhà thờ rồi nói năng/chào hỏi hết mọi người. Có lần nọ, vị linh mục chủ tế hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay.

Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai mà dám thưa.

Các nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có lợi, nếu trả lời.

Nói thế nghĩa là: những người này chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo. Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

Nhiều năm trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han/góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng, bảo thủ hoặc trung lập. Ngày nay, lại thấy những người như thế đi đâu mất tuốt; hoặc, họ vẫn có đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn-luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh.

Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

Nhiều vị lại nhận ra rằng: thế giới nhà đạo mình đang sống, nay khác trước rất nhiều. Khác, với thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng, đầy dẫy những thông tin có đủ mọi chọn lựa. Thế nên, ai cũng sống hết mình với mọi người. Ngay tại sở làm, mọi người đều hăng say lãnh trách nhiệm. Vẫn làm vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không còn “cà kê dê ngỗng” như khi trước, dù về chuyện hội đoàn.

Bởi thế nên, khi linh mục chủ tế hỏi: “Anh/chị tính sao? Có ý-định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?” Câu trả lời thường là: “Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!”

Nếu hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?” Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

Ngày hôm nay, các câu Chúa hỏi hoặc nói ở Tin Mừng cũng đại loại như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai loại người nói trên. Ngài cũng chẳng giải thích tại sao Ngài không làm thế, hoặc Ngài vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói về bất cứ sự gì. Ngài không đi vào chi tiết để cho mọi người biết tại sao Ngài có lập trường như vậy.

Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc một cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên hoặc chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?” mà thôi.

Liên tưởng đến chuyện này, có thể là ta nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của cuộc sống trong Hội thánh, vào một thời rất khác thường trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con đi Đạo, một đòi hỏi về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi hỏi những gì ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con đi Đạo. Học hỏi và trân trọng việc phục vụ dân con hơn là sắp xếp để họ phục vụ Thánh Hội, mà thôi.

Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự vào cuộc sống đích thực của dân con đi Đạo. Phục vụ, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống với nhau rất thân thương. Nền và tảng, để dân con sống lập trường hăng say mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu, ngày của Chúa.

Đó, là những người con đang sống khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp hết mọi người. Trong đời…” (X. Lm Kevin O’Shea, Lời Chúa Sẻ San Chúa Nhật 26 thường niên năm A, nxb Tôn Giáo 2013, tr. 203-206)

Cuộc sống con người ở đời thường hay trong Đạo luôn có hai mặt. Có thể là như thế. Và, cũng có thể không là như vậy. “Có thể hay không thể” về nhiều việc, vẫn là hai mặt và/hoặc nhiều mặt của nhà Đạo trên thực tế. Một thực-tế, trải dài nhiều thế-kỷ qua các giai-đoạn thăng/trầm, trong lịch-sử.

Cuộc sống thăng trầm trong Đạo/ngoài đời vẫn là và sẽ là một thực tế để đời, khiến ta suy nghĩ suốt cuộc đời. Suy tư bằng nhiều cách thức rất đa dạng. Suy tư qua tâm niệm, hoặc hát hò, đọc truyện kể để nhớ mãi mà sống. Sống hân hoan, tiến tới bất kể sự việc xấu/tốt xảy đến với mình và với người, trong đời.

Trong suy tư như thế, nay đề-nghị bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang hướng về phía trước mà tiến bước và rồi lại sẽ vui tươi cất tiếng hát vang những ca-từ đang hát dở ở trên, rằng:

“Ngày ấy em như hoa sen”
Mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên,
Ngày ấy em như sương trong,
Nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.

Ngày ấy em như cung tơ,
Cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,
Ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình,
Mà lòng người cũng vô tình,
Rồi mộng úa thay màu xanh,
Người yêu xa bến mộng,
Đò xưa đã sang sông,
Dòng đời trôi mênh mông,
Dáng xưa nay xa rồi,
Đường khuya mưa rơi rơi,
Phố xưa quên một người,
Bàn chân gieo đơn côi,
Gió mang theo cơn lạnh
Về rót lệ trên môi.”
(Trần Ngọc Sơn – bđd)
 
“Bàn chân gieo đơn côi”, “Gió mang theo cơn lạnh về rót lệ trên môi”, vẫn là những lời hát của người người ở đời. Hát thế rồi, nay xin khép lại câu chuyện phiếm Đạo/đời, để rồi cứ thế mạnh-dạn lên mà sống những ngày còn lại trong đời, đầy hứa hẹn.

Hứa hẹn rồi, nay đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta trở về với vườn ngự uyển dẫy đầy giòng chảy tâm-tư làm đoạn kết những bảo rằng:

Thật vậy,
chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công
vì lòng tôn kính Thiên Chúa,
thì đó là một ân huệ.
Vì nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu,
thì nào có vẻ vang gì?
Nếu làm việc lành và phải khổ
mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng,
thì đó là ơn Thiên Chúa ban.
Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.”
(1 P 2: 19-212)

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn mong chờ sống cuộc đời  
đẹp như bao giờ.