Saturday, 22 September 2012

“Mặt Trời đen quá đen, đen như đời ta!”



Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 26 thương niên năm B 30.09.2012

“Mặt Trời đen quá đen, đen như đời ta!”
“Đời hằng mong thoát đi, đi khung trời xa.”
(Nguyễn Trung Cang – Mặt Trời Đen)
(Mt 6: 14-15)
            Có một thời, chừng như hồi đó là thập niên 50 hay 60 thì phải, bần đạo kịp thấy lòng mình rộn lên những ca từ như “Mặt Trời Đen quá đen” do Trung Cang viết. Ca từ này, trùng hợp với ý/lời ở nhạc bản  Noir, c’est noir!” của Johnny Halliday, rất cùng thời. Ca từ nhạc trẻ, khi đó diễn tả mặt trời đượm mầu đen, như đời mình. Gọi đó là lời tiên tri hoặc sấm hay không, bần đạo thật chẳng dám. Chỉ dám nhớ mỗi điều là: ca sĩ thời ấy cứ thích hát các nhạc bản có nhịp điệu kích động. Còn, ý/từ có ra sao cũng chẳng cần bàn.
            Hôm nay, ngồi buồn xét lại lời ca hôm nào, bần đạo đây thấy có cái gì đó nó khiến mình cứ phải suy phải nghĩ cũng rất lung. “Lung” đây, dĩ nhiên chẳng thể nào lung lạc niềm tin hay niềm gì đó cho cam. Mà, chỉ thấy hôm đó sao các tác giả lại cứ muốn người nghe nhắc nhở cảm thông với chuyện đời mình, thế thôi. Cảm thông chuyện đời, nay người người lại vẫn bảo: dù ta sống ở thời nào đi nữa, hãy cứ hy vọng vào sự thứ tha, vì Đấng-Thánh-Hiền-Bậc-Trên từng khẳng định: “Dậy mà đi, niềm tin đã cứu con!”
            Hôm nay đây, nhân lúc dừng lại chỉ dăm ba phút phù du, bần đạo lại mời bạn và mời tôi, ta suy nghĩ đôi điều về niềm tin có sám hối, thứ tha, có cả ân lộc cho thấy đời mình không chỉ gồm tóm mỗi chuyện như bên dưới:

            “Cuộc đời như chó hoang, lang thang về đêm.
            Cuộc tình không mấy khi nghe câu dịu êm.
            Mặt trời không muốn sáng, soi cho ta thấy
            nắng lên trong đêm dài, cho đời ta ấm áp.”
            (Nguyễn Trung Cang – bđd)

            Thật ra thì, đời mình hoặc đời người dù có như “chó hoang, lang thang về đêm”. Hoặc, như “Mặt trời không muốn sáng” để “soi cho ta thấy”, có “nắng lên trong đêm dài cho đời ấm áp” đi nữa, thì hỡi bạn và tôi, ta vẫn thấy lòng rất ấm nhờ lời vàng Chúa dạy còn đó vẫn y nguyên:

            Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta,
thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.
Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta,
thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”   
            (Mt 6: 14-15)

            Xem thế thì, đời mình và đời người chỉ thấy ấm lòng/ấm dạ khi đã và đang tha thứ hoặc nhận ơn thứ tha từ người khác. Nhưng, trước khi để lòng dạ mình được ấm áp hơn với những xác quyết từ bậc thày uyên bác, tưởng cũng nên tạt ngang qua đôi ba truyện kể để thư giãn, rồi sẽ tính. Tính, cả những chuyện hoặc “sự thể” được kể ra đây như thế này:

“Sáng hôm ấy, một ngày đẹp trời hơi bị hiếm, tôi bèn tranh thủ ra phòng mạch sớm hơn thường lệ. Mới tám rưỡi, đã thấy bệnh nhân đứng tuổi nọ ngồi đó chờ tôi xem lại vết mổ để cắt chỉ. Xem ra, ông có hơi vội vì còn phải đi đâu đó có cuộc hẹn. Tò mò không ít, tôi bèn hỏi ông một đôi câu xem ông có vấn đề gì không mà cứ nhấp nha nhấp nhỏm như thế, ai dè ông liền trút bầu tâm sự kể cho tôi nghe hệt như với người nhà. Nghe xong tôi lại hỏi:
-Bộ, ông có cái hẹn nào khác hay sao mà vội thế?
-Hẹn hò gì đâu, bác sĩ. Tuổi này mà hẹn hò với ai nữa cơ chứ.
-Thế sao tôi thấy ông có vẻ nóng ruột lắm thì phải?
-Dạ, không phải thế đâu. Chả là, lâu nay tôi hạ quyết tâm giữ đúng hẹn dù có chuyện không cần đúng giờ.
-Thế thì lần này ông có hẹn gặp ai thế?
-Là bà xã của tôi thôi.
-Tuổi này đi gặp vợ mà cũng phải đúng giờ sao?
-Đúng vậy. Bởi, khi xưa tôi từng thất hẹn nhiều lần với bà ấy, thế nên hôm nay tôi có lời thề là sẽ không bao giờ lỡ hẹn với người tình của mình đến suốt đời.
-Sao gọi là người tình của mình, lãng mạn quá nhỉ?
-Ấy! Chuyện chẳng có gì là lãng mạn đâu bác sĩ, nó cũng chỉ thế này: Hồi đó lần đầu tiên gặp người vợ sắp cưới, tôi trễ tầu cũng khá lâu, vì lúc ấy tôi đinh ninh mình có hẹn với một người khác, nên đã quên khuất đi mất. Khổ nỗi là người vợ sắp cưới của tôi biết cái tật hay nịnh đầm của tôi, nên mới tính cho tôi đi tầu suốt cho tiện bề sổ sách. Kỳ đó, tôi phải năn nỉ đến gẫy lưỡi mới êm. Cũng vì nể mặt bà con chòm xóm, nên bà ấy tuyên bố chỉ tha cho tôi lần ấy thôi. Sau này, có lỡ mà tái phạm, thì tôi chỉ còn mỗi nước đi chầu Diêm vương là xong ngay, chứ bà ấy sẽ không tha. Bởi thế nên, mới vội vã…
-À ra thế. Vậy, bây giờ tôi giúp bác giữ trọn lời thề năm xưa nhé. Xong! Bây giờ bác có thể “ra đi” gặp bã được rồi đấy. Nhưng hãy nhớ lời vợ dặn, đừng có đào hoa nữa, đấy nhe ông!.”

Người kể hôm nay từng nói với mọi người rằng: truyện kể hôm nay thật ra chẳng có gì gọi là “rách việc” hết. Có kể ra đây, cũng để coi đó như một  dẫn nhập cho đề tài hơi khô cứng và chậm tiêu, thôi. Minh định rồi, người kể nay đã cùng tôi, mời bạn đọc lẫn bạn nghe qua CD, cứ tha hồ mà “lướt sóng” với chuyện phiếm, để gọi là “mua việc” cho tiện việc.
Mua việc, là mua vào mình những chuyện lình xình rất “rách việc”. Mua việc, là “buôn chuyện” Đạo, xục xạo chuyện đời những là thứ tha/tha thứ cả đến lỗi phạm rất tày trời. Và, mua việc là mua vào mình những chuyện mà người người ở chốn nợ đời ít bàn ra tán vào, cho thông thoáng. Bàn, chuyện đạo/đời có lỗi phạm khơi khơi, cần sám hối với ăn năn. Mua việc, là mua chuyện “bực mình” không tên tuổi để rồi cứ tự hỏi: không biết có nên tha thứ nữa hay không. Và, mua chuyện còn là mặc vào mình những chuyện lỉnh kỉnh mà người đời thường hay né tránh.    
Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta không ngại ngùng thì cứ mua việc cho rộng đường dư luận rất lai rai, dài dài, để nói: từ ngàn xưa, ở đất miền Do thái xa xôi/diệu vợi có các vị “lão làng”/“già làng” từng bàn nhiều những chuyện tha thứ đến 77 lần 7 như Tin Mừng thánh Mátthêu từng ghi như sau:

“Thưa Ngài, nếu anh em tôi có lỗi với tôi,      
tôi phải tha đến mấy lần? đến 7 lần phải không?    
Đức Giêsu nói với ông: ‘Ta không nói: đến 7 lần mà đến 77 lần 7..”
(Mt 18: 21-22)

Ngôn ngữ thời nay, người người sử dụng cụm từ “tha thứ” khác thời xưa, cũng rất nhiều. Người thời nay khi nghe thế, sẽ bảo: “Ấy! Bạn đừng bận tâm mấy chuyện ấy!” Người Công giáo phương Tây, cũng vậy, mỗi khi nghe ai nói lời xin lỗi, lại cứ bảo: “Thôi! Ta hãy quên chuyện ấy đi!” hoặc: “Hãy bỏ qua giùm tôi đi, hỡi bạn hiền!.” Hoặc: “Đề nghị bà con mình ra ngoài kiếm cái gì làm vài ngụm, cho quên đời!” Có trường hợp, bạn nói: Hãy quên tay đó đi. Hắn “dởm” chết được, hơi đâu mà bận tâm, cho mệt!”
Người đời sử dụng nhiều từ ngữ rất “thứ tha”, nhưng có lúc lại vẫn vi phạm sơ xuất/lỗi lầm đến độ khó mà nhận được thứ tha trở ngược lại. Bởi, mọi chuyện đâu phải cứ “đâm sau lưng chiến sĩ” rồi xin lỗi sao?   
Tha thứ, là một trong các đề tài được nói nhiều ở Tân Ước. Hội thánh thường hay trích dẫn các chương/đoạn nói đến yêu cầu này rải rác trong Tin Mừng như thánh Mát-thêu nói trong kinh Lạy Cha, và lời hỏi/đáp giữa Chúa và tông đồ của Ngài; hoặc, Tin Mừng thánh Luca có truyện “người con đi hoang” phá tán tài sản gia đình là thế, mà khi trở về vẫn được thứ tha, và còn được Cha nhân từ thết đãi tiệc rượu như người trọng vọng, vv…
Với người đi Đạo sống ở đời thường, không phải chuyện gì cũng đều có thể tha thứ một cách rất dễ dàng được. Bởi, khi thứ tha, người người đều lồng vào đó một động thái độc đáo/riêng biệt chỉ một mình mới có. Độc đáo, là bởi trong đó có tác dụng ngay ở đây, bây giờ, để đối xử cách riêng tư với người bị đụng chạm. Cung cách xử sự riêng tư, có dính đến giao dịch, trao đổi về đạo đức/chức năng, một động tác liên quan đến hai người: một tha thứ và một nhận sự tha thứ.
Người tha thứ, nhận trách nhiệm về sự xấu sẽ xảy đến. Không coi đó là xấu xa nữa. Người tha thứ có kinh nghiệm từng trải, đã biết tôn trọng cả người bị đụng chạm, không còn muốn gây thương tích cho đối tác của mình nữa. Có kinh nghiệm từng trải ở đây, là hiểu biết những tai hại xảy đến cho cả hai bên. Nên, mới cương quyết đổi thay. Mới mở đường cho mình lập lại khuôn khổ để có được sự thứ tha.
Trong khi đó, người nhận ơn thứ tha, quyết không trả thù hoặc có ý giáng trả mọi tai hại về vật chất cũng như tinh thần. Quyết từ nay không còn gây oan nghiệt/giận hờn cho bất cứ ai. Nhưng, nhất quyết đổi thay mọi thái độ dù hành xử của mình hay của ai khác không thể tha thứ được.
Đọc Tin Mừng, hẳn người đọc cũng thấy có khác biệt giữa ơn tha thứ Chúa ban và sự thứ tha từ người phàm. Chúa thứ tha, Ngài không kể số lần hoặc không gian/thời gian được dùng đến để tha thứ. Và ơn thứ tha Ngài ban ra, vẫn mang tính chất cao cả, không có gì để tranh luận hơn/thua. Tha thứ từ nơi con người, thường là có tha đấy nhưng với điều kiện này khác. Điều kiện ấy, được diễn tả qua câu ví: “bánh ít đi, bánh qui lại” hoặc, tha đấy nhưng từ nay thì đừng hòng ta nhìn mặt, đừng hòng được ta chơi với nữa . Tức, tha đấy nhưng không hẳn là tha vô điều kiện và/hoặc có hạn chế.
Và khác biệt rõ nét giữa thứ tha của ta với tha thứ từ Chúa, vẫn là câu Chúa nói: “Hãy trỗi dậy mà đi, niềm tin của con đã cứu con.” Nói cách khác, Chúa thứ tha cả khi con người cố chấp/biếng nhác hoặc tán tận lương tâm. Nói cho cùng, thứ tha của Chúa là sự tha thứ không câu nệ. Chẳng bao giờ Ngài trách cứ hoặc đe doạ trừng phạt bất cứ ai, dù người đó sơ xuất thật quá quắt.
Về tha thứ Chúa đòi, nay ta quay về với ca-từ vừa trích dẫn, sẽ thấy khác. Khác, ở chỗ:

Nụ cười ta đánh rơi mất khi còn thơ
Chỉ còn hiu hắt trên đôi môi hững hờ
Từng niềm tin vỡ tan bước xa mông mơ
Mặt trời đen vẫn xua bóng đen nhởn nhơ
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Cũng may là, nghệ sĩ ở trên còn vớt vát đôi câu về “mặt trời đen” những hờn oán, rất như sau:

“Nụ cười chưa tan biến sao như nước mắt
Thấm lên đôi vai gầy ôi buồn đau biết mấy
Chuyện buồn mong quên hết ta mong quên hết
Vứt đi bao u sầu, mong tìm nơi nương náu.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Đúng thế. Hãy “vứt đi bao u sầu”, và “Chuyện buồn, ta mong quên hết”. Quên hết, để chỉ nghĩ đến niềm vui nhà Đạo mình vẫn quan niệm và nhắn nhủ.
Nhận định của nghệ sĩ về đời người có “Nụ cười chưa tan biến, sao như nước mắt thấm lên đôi vai gầy, ôi buồn đau biết mấy.“ Thế đó, là khác biệt giữa nhận định của nghệ sĩ ngoài đời với người đi Đạo. Tuy nhiên, khác biệt tha thứ giữa người đi Đạo và Đạo của Chúa vẫn thứ tha Ngài không đòi phải sám hối.
Khác biệt này, có tác giả từng viết ra lời nhận định nghe hơi lạ, nhưng rất thấm, như:

“Thánh Tôma Akinô từng nghĩ rằng tha thứ kiểu con người thực hiện không đòi phải sám hối, nhưng đó không là sự thứ tha của Thiên Chúa. Thiên Chúa, khi tha thứ, Ngài luôn tạo ra sự thể và hy vọng là người mắc lỗi sẽ sám hối. Thế nhưng, có học trò thuộc trường phái Tô-mít lại suy nghĩ theo cách khác. Vị ấy tên là M. Leblanc từng viết trong “Revue Thomiste” đăng vào năm 2010, tr. 595-614, đã có nhận xét như sau:
Lòng Chúa xót thương –tiếng La-tinh là: “Misericordia” một cụm từ được ghép từ hai chữ “Miser” (nỗi thống khổ) và “Cordia” (tâm can con người) chung làm một. Cụm từ này, nói lên điều cốt tuỷ là: tâm can con người luôn thấu hiểu/cảm thông sự thống khổ của người khác. Lòng xót thương, đến với những ai đau khổ, sầu buồn vì thiếu tiền thiếu của hoặc có sai trái do lỗi lầm mình mắc phạm. Xót thương cả những người đau ốm, yếu ớt hoặc thấy thua sút về mọi mặt, có giới hạn về mọi thứ khiến mình ra khốn khổ.
Thành thử, đó là lý do làm cho tâm can con người thấy xót thương cho những người rơi vào hoàn cảnh khốn đốn, nghèo khổ. Không thể có lòng xót thương nếu không định ra được sự thống khổ ở ai đó. Người có lòng xót thương là nhìn vào những ai đang khốn khổ khi nhìn lại chính mình. Làm như thế, người có lòng thương xót sẽ biết mình cùng một phận với người nghèo đói/khổ sở. Thấy mình đồng cảm với sự khốn khổ của người kia. Nếu bảo rằng thương xót là hành xử của tình yêu, thì người có lòng xót thương sẽ yêu đương người cùng khổ như thành phần của chính con người mình. Để chứng minh là mình có lòng thương xót, trước tiên mình phải cảm nghiệm chính mình cũng khốn khổ, có cùng một khổ ải như người khác. Với người khác.
Lòng xót thương, diễn tả tâm trạng của tâm can bao hàm cả tính xót xa lẫn thân phận khốn khổ cùng gộp chung ở một vị trí. Nơi tâm can con người đã thấy hiện diện cả tấm lòng xót xa hết mọi người. Tình thương xót tóm gọn cả sự sầu khổ của người khác rồi dùng đó làm của riêng mình, ngang qua tình thương yêu-kết hiệp với người mình đau xót. Người có lòng xót xa xem bạn bè như chính mình. Những gì làm bạn bè khổ sở cũng là yếu tố khổ sở riêng tư của chính mình. Tức, cả người xót dạ và cả người được thương vẫn cảm nghiệm cùng một tình tự hệt như thế. Cũng bị đụng chạm vì nó như cái gì đó thật rất xấu nằm ở trong. Nói cách khác, người có lòng dạ xót xa nỗi khốn khổ cả với người chịu khổ đau. Người già lẫn kẻ khốn khó đều thấy rõ nỗi khổ ngay bên trong người khác để rồi sẽ nói: tôi cũng thế. Người đau yếu, hãi hùng cũng khổ như nhau. Sự Xót xa dường như đòi phải nên khốn khó với người đau khổ ngay trong cơn khổ ải của họ. Ở đây nữa, Thiên Chúa là Đấng xót xa cả người khốn khổ theo cung cách đó và chỉ mỗi cách đó, thôi.
Bằng vào tình thương yêu-kết hiệp, người người coi bạn bè cũng như mình, quyết lấy đi mọi đau khổ của người khác làm của mình. Chính vì lý do này, mà cụm từ cảm thông/san sớt xuất từ tiếng La tinh “con-dolere” (cùng chịu khổ đau). Ở đây nữa, còn có nghĩa san sớt và cảm thông nỗi sầu của nhau, nữa.
Vấn đề hỏi rằng: Chúa có làm như thế không? Ngài thực hiện cá chuyện ấy chứ? Phải chăng Chúa từng làm hoặc vẫn coi con người như thành phẩm của chính Ngài? Nếu vậy, thì Chúa cũng mủi lòng cùng đau với nỗi đau của ta và cũng xót xa hết mọi người đấy chứ?
Có thể nói Chúa hành xử thay cho ta, nên Ngài chuyển thông chính Đức Chúa Cha đến với ta qua các nỗi khổ của ta. Thiên Chúa là Sự Tốt Lành Tiên Quyết tạo hiệu quả cất lấy đi hoặc làm vơi nhẹ nỗi khó khăn của ta. Tuy nhiên, việc đó dù có bảo bọc tính mủi lòng thánh thiêng thế nào đi nữa, việc ấy cũng không cho thấy cội nguồn của các hành động mà Ngài làm cho mọi người. Nếu hiểu thế, khác nào bảo Thiên Chúa chẳng có lòng đam mê/cảm xúc nào hết. Thiên Chúa là người chỉnh sử mọi khó khăn của ta chứ không là người cùng đồng cảm cho ta và với ta.
Nhìn cung cách hiệp nhất, sẽ thấy Chúa và ta cùng tham gia tiến trình yêu thương-kết hiệp dễ mủi lòng. Cung cách ấy, lòng cảm động xót xa người khác như chính mình. Điều đó dễ thấy nơi tình cảm thương yêu của mẹ hiền với đàn con: chính đó là tình thương yêu-kết hiệp thể hiện nơi món quà người mẹ tặng cho con. Bởi quà tặng, tức bản thân con cái là thực chất sống động do cha mẹ chuyển tặng. Cũng như câu truyện diễn tả Chúa tạo dựng người nữ ở sách Khởi Nguyên nói lên sự việc người phàm ban tặng thực chất đời mình để người khác (ở đây là con cái) được hiện hữu qua tạo dựng và như thế, người nữ là người nhận quà thương yêu/kết hiệp Chúa ban tặng từ nam nhân đầu đời thể hiện nơi nhân vật Ađam. Cũng một hình ảnh tương tư nơi hoa trái lủng lẳng trên cây nhưng chưa rớt xuống, vẫn là thành phần của chính cây. Hình ảnh này dù chỉ mang tính chất thể, nhưng tình trạng này cũng xảy đến bằng động tác thương yêu-hiệp nhất, rất xót xa/mủi lòng.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, I Beg Your Pardon: A Study of What Forgiveness Means Giáo án giảng dạy tại Đại Học Công Giáo Úc, Sydney 26/5/2012 tr. 45-46)

            Nói về tình thương yêu-kết hiệp theo ngôn ngữ thần học, là nói và diễn giải rất như thế. Còn, nói về cuộc đời theo kiểu nghệ sĩ ngoài đời, lại nói bằng lời ca, đôi lúc có cả tiếng khóc thét, cũng tối đen như:

Sao ta vẫn thấy mặt trời đen như mực!
Mặt trời đen, đen như đêm ma quái Ah ha ha ha ha..
Sao ta vẫn thấy mặt trời đen như mực!
Mặt trời đen, đen như đêm ma quái Ah ha ha ha ha…”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Nói về mặt trời dù “đen như mực” giống đời người, đâu có nghĩa là nghệ sĩ mình cứ thế “ăn thua đủ” để rồi tả tình/tả cảnh bằng những câu ca đầy than vãn và oán thán cả một đời. Oán và thán, cả đấng thánh hiền từng tạo dựng cuộc đời người, cho mình! Nói về cuộc đời rất không đen như mặt trời, là tiếp tục nói như đấng bậc ở trời Tây vẫn cứ bảo:

“Nhìn sự việc đầy thương yêu –dù khổ đau/đen tối vẫn còn đó- là tự hỏi: giữa Đấng Tạo Hoá và tạo vật có tương quan nào đó xem ra không được ổn. Tuy là thế, sự thật vẫn là sự thật, tức: vẫn luôn có tình thương yêu đậm sâu rất thánh thiêng quyết kết hiệp Đấng Tạo Hoá với tạo vật, còn vững mạnh hơn cả cách biệt về bản thể giữa Tạo Hoá và tạo vật ở đời.
Nếu ai đó lại tìm cách áp đặt sự cách biệt này vào với Tạo hoá và con người, thì chắc chắn người đó đã có vấn đề, Bởi, Thiên Chúa không thể tham gia kết hiệp vào thứ gì đó trong con người của ta mà lại không mang tính thánh thiêng của Thiên Chúa. Đúng hơn phải nói: Thiên Chúa thương ta như cái gì đó xuất tự chính mình Ngài. Điều này có nghĩa là: ngay trong ta, đã có sự tốt lành ở bên trong khiến cho Thiên Chúa thương yêu ta đến độ muốn cho ta được kết hiệp với Ngài không thể có giới hạn hoặc nhược điểm. Thiên Chúa chuyển đạt sự hiện hữu thánh thiêng của Ngài cho ta vì mục đích kết hiệp đó. Và khi Thiên Chúa thông chuyển chính mình Ngài cho ta, thì việc đó đến từ sự tốt lành của Thiên Chúa, mà ta gọi là tạo dựng. Và, khi Thiên Chúa thuyên chuyển chính mình Ngài cho một thực thể mang trong mình một nhược điểm hoặc hạn định hoặc cả đến sự xấu, mà lại đến từ lòng xót xa thương yêu của Ngài, thì ta gọi đó là gì đây?Có thể đó là tầm kích (thường thì đó là tầm kích dè dặt, không đúng cách) về tạo dựng. Và, có lẽ ta phải dùng ngôn từ nào khác để cắt nghĩa hiện tượng này, mới đúng…
Sự việc này không giống như tình thương yêu xót xa kiểu con người, nhưng còn hơn thế nữa. Như thế thì, đó không phải là tương quan mang đầy bản thể giữa tạo vật và Đấng Tạo Hoá. Chính ra phải hơn thế nữa. Thiên Chúa thương yêu ta như là chính mình Ngài, và việc này vẫn tồn tại dù sự thân thiện giữa ta với Chúa bị cắt đứt. Trên thực tế, thì căn bản là sự thể ấy sẽ được tái thiết lập vào sau lúc đứt đoạn, và ta gọi đó là sự thứ tha.
Ở đây nữa, ngôn ngữ vẫn mang tầm vóc rất hạn chế, lờ mờ một ẩn dụ. Thứ ẩn dụ khó lòng mà chỉnh sửa nếu không có ngôn ngữ cực mạnh của mặc khải mà người nhà Đạo gọi là Khải huyền.” (x. Lm Kevin O’Shea, bđd ở trên)

            Nói cho cùng và còn muốn nói thêm về tha thứ, thì cũng chỉ bảo rằng: ở sự thứ tha thần thánh Chúa tặng ban, vẫn là sự toàn vẹn khác với việc ta mong đợi về sự vẹn toàn ở trong ta và nơi Chúa. Chính vì thế, nên ta thấy khó mà hiểu nổi làm sao lại có được sự thứ tha rất vẹn toàn khi con người của ta luôn là bất toàn.
            Điều này chỉ có thể hiểu được bằng chuyện ví von/so sánh như bầu khí cởi mở và/hoặc tính cách tích cực thấy có ở sự tha thứ mang tính rất hạn chế nơi ta, mà thôi. Hạn chế, cả trong sự việc ta nhận là mình có cố gắng để thứ tha, nhưng chưa hoàn toàn. Bởi thế, cũng nên tìm thêm ngôn từ nào diễn đạt rõ nghĩa hơn và mạnh mẽ hơn về thứ tha hoặc tha thứ.
            Trong khi chờ đợi để có được ngôn từ như thế, tưởng cũng nên về với truyện kể để suy tư và thư giãn, cho đẹp cuộc đời. Truyện để kể là những “sự” như sau:

Trong một tiệm ăn, ông khách gọi bồi bàn mang cho ông ly café, nhà hàng mang tới một ly café trong đó có một con ruồi nhặng đang vẫy vùng, tìm đường thoát.
Qua sự kiện này, thông thường phản ứng của khách thế nào?
Khách Nhật: lễ độ trả tiền, không đụng tới ly café, kín đáo ra về.
Khách Ăng Lê: lạnh lùng chỉ cho chủ tiệm con ruồi trong ly.
Khách Pháp: phàn nàn, cau có vì ly café làm ông mất vui, phí phạm cả một ngày trong 3 tháng hè thường niên.
Khách Mỹ: gọi điện cho luật sư riêng, ra lệnh làm thủ tục kiện tụng, đòi 2 triệu dollars bồi thường thiệt hại tinh thần.
Khách Đức: đề nghị chủ tiệm thi hành kỷ luật với nhân viên có lỗi.
Khách Ý: mọi chuyện ổn thoả, nếu tiệm không tính tiền café và bữa ăn.
Khách Ả Rập: rút ngân phiếu mua tiệm ăn rồi đóng cửa, sa thải hết nhân viên.
Khách Thụy Điển: cảnh cáo chủ tiệm không tôn trọng sinh mạng và hạnh phúc của sinh vật.
Khách Mễ: gạt con ruồi, rồi uống hết ly café.
Khách Tầu: tu ly café ừng ực rồi nhậu con ruồi ngon lành, hỏi chủ tiệm có cách nào dụ thêm ruồi vào nhà bếp.
Khách Do Thái: dụ bán con ruồi cho người Tầu, bán ly café cho người Mễ, kiện chủ tiệm và nghiệp đoàn tiệm ăn về tội kỳ thị Do thái. Chính phủ Do thái tố cáo Hồi giáo đã sáng chế võ khí khủng bố mới bằng ruồi nhằm tiêu diệt Do Thái, ra lệnh cho quân đội nhẩy dù, đổ bộ, chiếm toàn vùng Gaza và một phần lãnh thổ Ai Cập dọc biên giới Palestine. Vận động Do thái tố cáo chính phủ Mỹ làm tay sai cho Hồi giáo, bán đứng Do Thái. Tổng thống Mỹ chính thức cáo lỗi và Thượng Viện biểu quyết tăng gấp ba viện trợ quân sư, kinh tế của Mỹ cho Do Thái.” (truyện cười trên mạng, vừa gửi đến)

Người kể truyện hôm nay lại bàn luận bằng sự việc kéo theo hành xử cần phổ biến: đó là sự tha thứ. Tha cho người đầu bếp pha cà-phê đã sơ ý để ruồi nhặng lọt vào ly. Truyện kể chẳng có gì là ly kỳ, hồi hộp hoặc đưa ra bài học nào hết. Nhưng người kể lại cứ kéo theo triết lý của nhà Đạo sống ở đời là phải biết tận dụng mọi tình huống để hiện thực một thứ tha, dù người phạm lỗi chẳng mảy may tỏ dấu gì là sám hối hết.
Không những thế, người kể hôm nay lại còn đề nghị người đọc chuyện phiếm qui về điển tích trích dẫn từ lời vàng của Chân Phước Têrêxa thành Calcutta như sau:

“Ngày nay, có quá nhiều đau khổ trong các gia đình trên toàn thế giới. Bởi thế nên, cầu nguyện cho mọi người trên thế giới là việc cũng quan trọng như tha thứ. Người ta hỏi tôi phải khuyên bảo thế nào cho đôi vợ chồng đang gặp khó khăn nghĩa là chung đụng sống với nhau nhiều năm mà không có tha thứ cho nhau, thì tôi luôn luôn trả lời: 'Hãy cầu nguyện và tha thứ'. Hãy làm thế cho các thanh thiếu niên từ các mái nhà đầy hung bạo: 'Hãy cầu nguyện và tha thứ' cho các người mẹ cô độc không được gia đình hỗ trợ: 'Hãy luôn cầu nguyện và tha thứ' và lúc nào cũng thầm thì với Chúa, rằng: 'Lạy Chúa, con yêu Chúa. Lạy Chúa, con hối lỗi thật rồi. Lạy Chúa, con tin Chúa. Lạy Chúa, con tín thác mọi sự thuộc về con cho Chúa. Xin Chúa giúp con yêu thương và tha thứ cho nhau như Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho chúng con.” (Trích: Triết lý tuyệt vời và lối sống đơn giản của Mẹ Têrêxa Calcutta phổ biến trên mạng)

Nói cho cùng, suy tư cầu nguyện kiểu của Chân Phước Têrêxa thành Calcutta có là cung cách để ta bàn về cuộc đời mà người nghệ sĩ cứ tưởng và cứ hát rằng:

Cuộc đời như chó hoang, lang thang về đêm.
            Cuộc tình không mấy khi nghe câu dịu êm…”
            (Nguyễn Trung Cang – bđd)

            Lời cuối hôm nay, còn là lời nhắn ngược với nghệ sĩ hôm trước rằng: cuộc đời người và cuộc tình vẫn còn đó những “câu dịu êm” đấy chứ. Dịu êm đây, là tha thứ dù anh có nhận xét rất bi đát. Đời người, vẫn còn đó yêu thương-kết hiệp, nếu bạn và tôi ta vẫn chịu ra ngoài mà chào đón hết mọi người, trong tương quan tốt của con người.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Chả bao giờ dám bảo rằng
            cuộc đời người rất đen đủi,
            dù có chán.


 

     

No comments: