Sunday, 15 November 2009

“Hãy nói về cuộc đời”

Khi tôi không còn nữa Sẽ lấy được những gì Về bên kia thế giới Ngoài trống vắng mà thôi…”

(Anh Bằng/Du Tử Lê – Khúc Thụy Du)

Nói về đời, sao người chỉ muốn nói “khi tôi không còn nữa”. Cuộc đời, còn nhiều thứ để nói lắm chứ. Nói về đời, là nói vào khi tôi/khi bạn đang còn sống. Sống để nói, chứ đâu nào: “lấy được những gì”, “ngoài trống vắng mà thôi”. Thì ra, khi nói về cuộc đời, là “để lấy”. Lấy gì? Lấy, mà làm chi?

Thật ra, thì khi nói, bạn và tôi nào có muốn lấy những chi chi. Nhất thứ, là lấy để mang “về bên kia thế giới”. Nói, chỉ để kể. Kể cho nhau. Kể cho thế hệ mai sau. Những điều mà suốt cuộc đời, ta chỉ tranh sống chứ chưa giành kể. Kể thật nhiều. Kể lai rai. Không ngoài những gì về đời người và người đời. Kể, cả những chuyện tai nghe mắt thấy, như truyện kể ngắn gọn, ở bên dưới:

“Kể rằng:

Có thầy tu nọ thuộc phái “khất thực” đi ngang qua khu làng nhỏ, để hành và khất. Nhằm lúc trời hanh khô, thầy cất bước ra đi, đi mãi đi hoài, vẫn không tới. Thấy đã thấm mệt, thầy bèn quyết định dừng chân đứng lại, rẽ vào căn nhà nhỏ, để xin nuớc. Ngặt một nỗi, căn nhà nhỏ chỉ thấy có cô gái còn trẻ, dù không xinh. Cô gái nghe thầy tu nói muốn xin nước, bèn đặt một chai nước ở hiên nhà, định quay vào trong, để lấy ly. Lúc ấy, thầy tu lại cứ tưởng cô gái đi vào luôn, nên định bụng mở nắp chai, tu một hơi cho nó đã. Vừa lúc đó, cô gái đi ra, thấy vậy bèn kêu lên:

-Thầy đừng tu, để em lấy…

Thầy tu hoảng hốt, ngắt lời:

-Cô đừng lấy, để tôi tu…

Quả là, về đời người hoặc người đời, cũng có trăm phương ngàn cách để nói, mà không lấy. Nói làm sao? Lấy thế nào? Đó, vẫn là vấn đề, của mọi thời. Mọi nơi. Chí ít, là nhà Đạo. Về cuộc đời ở nhà Đạo, không thể “nói lấy nói để”, như nghệ sĩ ở trên vẫn dành nói và hát, những lời như:

“Hãy nói về cuộc đời

Tình yêu như lưỡi dao

Tình yêu như mũi nhọn

Êm ái và ngọt ngào

Cắt đứt cuộc tình đầu… (Anh Bằng/Du Tử Lê – bđd)

Không nói được hoặc nói không được, là bởi: nói về đời người và người đời, thường là người người vẫn nói theo hai kiểu. Hai cách. Cách đầu, là nói tiếng “Không”. Cách sau, là nói “Có”.

Nói không –chứ không phải là không nói- không thể là nói chữ “không” về mọi chuyện. Với, mọi chuyện. Bởi, nếu bạn và tôi, ta cứ nói tiếng “không” về mọi chuyện, thì cuộc đời con người sẽ chẳng có chuyện gì để mà nói. Chẳng có gì để , phải quan tâm.

Ngược lại, nếu nói tiếng “không” với mọi chuyện, hẳn là ta sẽ chẳng còn nhận ra được chính mình. Mình là ai? Mình muốn mình là ai, nữa. Mình ra sao? Làm những gì? Và, nếu cứ nói tiếng “không” với mọi người, mọi chuyện, cả chuyện yêu đương, hoặc đương yêu, hoặc được chọn lựa cuộc sống, chứ không phải là cõi chết, thì cuộc sống sẽ không còn đưa đẩy mình vào “Thiên đàng để ngỏ”. Và như thế, ta sẽ mất đi hạnh phúc. Mất đi những dịp thuận để nói tiếng “có”. Với mọi sự.

Nói “không”, là nói giống như nghệ sĩ ở trên, vẫn cứ nói và cứ hát những lời:

“Như loài chim bói cá

trên cọc nhọn trăm năm

tôi tìm đời đáng mất

trong vũng nước cuộc đời…” (Anh Bằng/Du Tử Lê – bđd )

Nghe người nghệ sĩ cứ nói những điều nghịch nhĩ như trên, cũng thử đề nghị, bạn cũng như tôi, ta có thể làm ngược lại, là nói có. Có, với người đời. Để rồi, đời mình sẽ trở nên tốt đẹp, hơn bao giờ. Hơn, cả người nghệ sĩ chừng vẫn tưởng. Hơn, là vì: khi nói “có”, tức là ta đã trả lời “có” với Chúa. Với, người người. Những người đang trông ngóng, chờ đợi ta nói có. Rất thân thương.

Nói “có”, là nói lời ứng đáp rất tích cực với những đòi hỏi, từ người khác. Đòi và hỏi, về tương quan giùm giúp. Đòi và hỏi, về một hỗ trợ. Rất thân thương, cần có. Cho nhiều người. Nói “có”, là nói như Đức Chúa, vẫn đáp trả một đòi hỏi rất ư là nghiệt ngã, về cứu độ. Nói “có” như Ngài, là bằng lòng chấp nhận những cái “không” nào khác, để người người được “có”. Có mãi. Có được điều cần có, trong cuộc đời, là: ơn cứu độ. Do Chúa ban.

Nói “có”, còn là chấp nhận lời mời gọi từ Chúa, khi Ngài đưa ra hiến chương Nước Trời 8 điểm, trong đó có điểm nói rất rõ, về sự “có”:

“Phúc cho những kẻ hiền lành,

Vì họ sẽ (có) được đất làm cơ nghiệp”

(Mt 5: 4)

Nói “có” về cuộc đời, ngày hôm nay, là nói rất rõ về “những kẻ hiền lành”, từng hiện diện làm vẻ vang Giáo Hội, mà dân con Đạo Chúa vẫn có thói quen gọi các ngài là “Tiến Sĩ Hội Thánh”. Sao là “Tiến Sĩ (của) Hội thánh, lại được gọi là “những kẻ hiền lành, vì “có” được “đất làm cơ nghiệp”? Đây là câu nói của một dân thường ở huyện, huyện Sydney, cũng từng hỏi và từng nói, như sau:

“Tôi nghe nhiều người nói về tước hiệu “Tiến Sĩ Hội Thánh”, nhưng không hiểu ý nghĩa/chức năng của danh xưng này. Xin ngài giải thích cho biết dựa vào đâu ta có thể phong cho ai đó tước hiệu là Tiến Sĩ, Hội Thánh? Và, các vị ấy, nay đếm được bao nhiêu. Xin biết ơn.” (Một giáo dân không ghi rõ, những tên cùng tuổi).

Đã “nói” và hỏi về những điều được nghe và được “nói” ở huyện nhà, huyện Sydney muôn thuở, của bạn tôi, thì câu hỏi dù có khó nói, hoặc nói khó hay không, vẫn được chuyển về “đức thày” nhà Đạo rõ ràng đầy đủ họ và tên rất ư là John Flader, của tờ The Catholic Weekly, hôm 20/9/2009, tr 10), như sau:

“Trước hết, như ông/bạn từng biết: tước hiệu “Tiến Sĩ” theo nghĩa này, không có ý nói về các vị tiến sĩ khoa bảng ngành y, chuyên trị cúm cho nhiều người. Cũng không là, các vị chữa trị nhiều bệnh tình của con tim, rất Hội thánh!

Cụm từ “Tiến sĩ” xuất xứ từ tiếng Latinh “docere”, có nghĩa là “dạy dỗ”. Xem như thế, “tiến sĩ” ở tiếng Latinh, có nghĩa là bậc thầy dạy. Những điều phải.

Muốn được Giáo hội phong cho tước hiệu “Tiến Sĩ Hội Thánh”, đương sự phải ngang qua 3 qui trình diễn tiến như sau: phải trổi trang về tín lý; phải sống lành thánh, rất thanh cao; và, phải được Hội thánh tuyên dương công trạng “Tiến Sĩ”, của nhà Đạo.

Duy chỉ các bậc hiển thánh mới được phép lĩnh nhận tước hiệu này. Chính vì thế, nhiều đấng bậc vị vọng từng sống ở thời Giáo Hội tiên khởi, từng viết nhiều sách nổi tiếng, nhưng một khi không được phong thánh, vẫn không phải là Tiến Sĩ Hội thánh.

Các thánh tử đạo, chẳng hạn, tuy lành thánh rất mực, nhưng chẳng có vị nào được Giáo hội phong làm Tiến Sĩ Hội Thánh, hết. Thậm chí, ngay như các bậc thánh nổi danh như: thánh Irênê, thánh Cyprianô, là đấng bậc rất vị vọng, từng đóng góp rất nhiều điều bổ ích vào kho tàng giáo huấn của Hội thánh, vẫn không được gọi là Tiến Sĩ Hội Thánh, bao giờ.

Một lý do khác nữa, là: các thánh tử đạo có lẽ vì đã được Hội thánh tuyên dương mức tối cao rồi, không còn danh hiệu nào cao quý hơn để áp đặt cho vinh quang của các ngài hơn được nữa.

Dù rằng về mặt tín lý, các Tiến Sĩ Hội thánh đều rất trổi trang, cũng không có luật đòi buộc các ngài phải đưa ra nhiều bài viết có giá trị. Chẳng hạn như, trong khi thánh Âu Tinh và Gioan Chrysostômô đã để lại rất nhiều bài viết, các vị khác như thánh Catarina thành Xiêna và thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, còn có khi viết rất ít, hoặc chẳng viết gì hết.

Mọi việc còn tùy vào quyết định của Đức Giáo Hoàng có đồng ý tuyên dương vị nào là Tiến Sĩ Hội Thánh hay không, thôi. Đức Giáo Hoàng tiên khởi làm việc này là năm 1295, Đức Bônifaxiô VIII đã tuyên dương 4 vị Tiến Sĩ Hội Thánh gốc Tây Phương, sống vào 6 thế kỷ đầu, là: thánh Ambrôxiô, thánh Âu-Tinh, thánh Giêrônimô và Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả.

Đối ứng với các vị này, còn có 4 Tiến Sĩ Hội Thánh thuộc Phương Đông, cũng được tuyên dương cùng thời kỳ, là các thánh: Gioan Kryzốtômmô, Baxin Cả, thánh Grêgôriô thành Nazanziô và thánh Atanaxiô. Dù các ngài được phong thánh rất sớm, từ trước, Đức Piô V cũng chỉ chính thức công nhận các ngài là Tiến Sĩ Hội thánh vào năm 1568, mà thôi.

Cùng năm 1568, Đức Piô V cũng đã tuyên dương vị thánh đồng môn Đa Minh của ngài là thánh Tôma Akinô làm Tiến Sĩ Hội Thánh. Vào năm 1588, Đức Giáo Hoàng Sixtô V thêm vào danh sách các Tiến Sĩ Hội Thánh tên của thánh Bônaventura.

Mãi cho đến thế kỷ thứ 18, con số các Tiễn Sĩ Hội Thánh của Đạo chỉ gồm có 10 vị, thôi. Phải chờ đến thế kỷ thứ 20, con số các thánh này mới gia tăng. Cho đến hôm nay, số các ngài lên đến 33 vị. Và, chỉ có 3 trong số các ngài, là phụ nữ.

Năm 1970, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã chính thức phong cho Têrêxa thành Avila và thánh Catêrina thành Viên làm Tiến Sĩ Hội thánh. Đến năm 1997, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị lại đã thêm vào danh sách các vị Tiến Sĩ Hội Thánh, tên tuổi của thánh Têrêxa hài Đồng, thành Lisieux, nước Pháp.

Vào thế kỷ thứ tư và thứ năm, các Tiến Sĩ Hội Thánh lúc bấy giờ gồm thánh Êphrem, Hilariô, Xirinô thành Giêrusalem, Xirinô thành Alexandria, Đức Lêo Cả và thánh Phêrô Chrysôlôgô. Năm thế kỷ tiếp theo sau, ta có thánh Isiđôrô thành Sêvilla, Chân Phước Biđê và thánh Gioan Đamátxinô.

Từ thế kỷ thứ 11, ta có các thánh Phêrô Đamaniô và Anxem. Ở thế kỷ thứ 12 và 13, ta có các thánh Bernađô thành Clevô, Antôn Pađua, Anbertô Cả, Bônaventura và Tôma Akinô. Thánh Catarina thành Xiêna sống vào thế kỷ thứ 14.

Thời kỳ nhiễu nhương chống cải cách vào thế kỷ thứ 16 và tiền bán thế kỷ thứ 17, đã sản sinh thêm nhiều Tiến Sĩ Hội Thánh rất cao cả, là thánh nữ Têrêxa thành Avila, Gioan Thánh Giá, Phêrô Canixiô, Rôbợt Belamin, Lôrenxô thành Brindixi và PhăngXoa LaSan.

Hai Tiến Sĩ Hội Thánh cuối cùng là thánh AnPhong Ligôri, sống vào thế kỷ thứ 18 và thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu thành Lixiơ ở thế kỷ thứ 19. Trong số 33 vị Tiến Sĩ của Hội Thánh nói trên, có 25 vị thuộc Giáo hội Phương tây và 8 vị thương Hội thánh Đông Phương. Về hội dòng và triều, 14 vị thuộc đấng bậc triều và 16 thuộc dòng tu. Trong số các Tiến Sĩ của hội thánh, có 2 vị là Giáo hoàng, 18 Giám mục , 9 linh mục và 1 phó tế.

Trong số các Tiến Sĩ Hội thánh sống đời tu trì, 5 vị thuộc Dòng Biển Đức, 3 vị thuộc Dòng Kín Camêlô, 3 Đaminh, 3 Phanxicô, 2 vị thuộc Dòng Tên, 1 Dòng Xitô và 1 Dòng Chúa Cứu Thế. (x. John Flader, The Catholic Weekly 20/9/2009, tr. 10)

Về những “nói”, nhiều vị nói rất nhiều chuyện. Nhiều việc. Và, nhiều người. Có người và việc rất nổi tiếng. Gì cũng nhất. Gì cũng hơn hẳn mọi người. Mọi sự. Những vị “hơn hẳn mọi người” ấy, tên tuổi họ đều được ghi vào sách “kỷ lục Guiness”. Sách này được cập nhật hoá, từng năm/tháng. Rất thời thượng. Nhưng, có rất nhiều điều cũng rất ư là “kỷ lục”, mà lại không được ghi vào sách. Những người/những điều được coi là “nhất trên đời”, nhưng không được ghi vào sách, nói ở trên. Nên kể đến, là:

“Thói quen tệ hại nhất,cho đời: Ưu tư

Niềm vui cao quý nhất: Cho đi

Mất mát to lớn nhất: Mất tự trọng

Công việc khiến ta hài lòng nhất: Giúp đỡ

Nét vẻ xấu xí nhất của con người: Lòng vị kỷ

Người/vật có nguy cơ dễ bị tuyệt chủng nhất: Lãnh tụ

Tài nguyên thiên nhiên cao quý nhất: Tuổi trẻ

Liều thuốc bổ ích nhất: Sự khích lệ

Khó khăn lớn nhất cần vượt qua: Nỗi niềm hãi sợ

Thuốc an thần hiệu nghiệm nhất: Sự thanh thản

Căn bệnh khiến ta khập khễnh thất bại nhất: Bào chữa/kiếm cớ

Sức mạnh uy phong nhất trong đời: Tình yêu

Tiểu nhân nguy hiểm nhất: Ngồi lê đôi mách

Vi tính lạ kỳ nhất: Não bộ thần kinh

Thiếu nó, ta sẽ trở nên tồi tệ nhất từ xưa đến nay: Niềm Hy vọng

Vũ khí giết người ghê rợn nhất: Lưỡi mềm uyển chuyển

Cụm từ có tác dụng nhất: “Tôi làm được”

Tài sản lớn nhất: Niềm tin

Tình tự vô dụng nhất: Thương hại chính mình

Nữ trang hấp dẫn nhất: NỤ CƯỜI

Vật sở hữu giá trị nhất: Sự liêm chính

Đường dây trao đổi hiệu nghiệm nhất: Lời nguyện cầu

Đức tính dễ lây lan nhất: Niềm phấn khởi

Xem như thế, “nói về cuộc đời”, là nói về những gì hay nhất, đẹp nhất. Cần nói. Cần kể. Nói về cuộc đời, là nói về những điều như thế. Những thứ, mà truyền thông đại chúng, cũng như báo đài/sách vở, ít khi ghi.

Hỏi và nói, về người đời/đời người, đừng nên hát lời cuối của nghệ sĩ nói trên, ghi bên dưới:

“Đừng bao giờ em hỏi

Vì sao ta yêu nhau

Vì sao môi anh nóng

Vì sao tay anh lạnh

Vì sao thân anh rung

Vì sao chân không vững

Vì sao, và vì sao!” (Anh Bằng/Du Tử Lê – bđd)

Vì thế nên, khi hỏi và nói điều gì đi nữa, đời người vẫn như thế. Trừ phi, người đời biết nghe Lời Thầy Chí Ái, từng nói. Ngài nói rất chí lý. Từ ngàn xưa:

“Phúc cho những kẻ biết thương xót,

vì họ sẽ được xót thương.”

(Mt 5: 7)

Và, hiền nhân/tiến sĩ của Hội thánh, lâu nay là những người từng nói. Từng nghe. Từng làm theo Lời Thầy. Rất đúng.

Trần Ngọc Mười Hai

có bao giờ dám nói,

nhưng chỉ dám hỏi.

Hỏi mình. Hỏi người.

Về đời người. Và người đời.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com

No comments: