Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 32 thường niên năm C 10/11/2019
“Cho nhớ thương về quê xưa.”
Mùa Xuân không còn nữa,
Muôn cánh hoa đào phai úa,
Lối cũ rơi hững hờ.”
(Nguyễn
Hiền – Hoa Bướm Ngày Xưa)
(1Phêrô 4: 12-16)
“Nhớ thương quê xưa”, “Xuân mùa không còn” rồi thì cả đến “lối
cũ” cũng như “hoa đào” hoặc hoa xuân
ít nhiều cánh, cũng chẳng ai còn nhớ, còn thương như khi xưa, bao giờ.
Đó, là
niềm thương niềm nhớ về chốn cũ ”Ngày
xanh”, “Hồn thơ mơ màng” và… thôi
thì cú đủ trăng thanh gió mát, “làn mây trôi”, “Khung trời hoa bướm”, “Nắng tơ vàng”, đủ thứ, hết mọi loại lại cứ ơ
hờ, trời mơ quẩn quanh đây đó mấy tư-tưởng đầy những thơ như câu ca còn hát mãi:
“Nơi ấy
bao ngày xanh qua
Hồn thơ mơ màng quá
Yêu những khung trời hoa bướm
Với nắng tơ vàng êm
Yêu sao
ngày thơ ấu
Đất nước chưa thay màu
Những tấm lòng thương nhau
Cười nghiêng nghiêng tà áo
Năm tháng theo làn mây trôi
Ngày thơ xa dần mãi
Nơi cũ dâng sầu tê tái
Sắc bướm hoa tàn phai
Hồn bướm
hoa xưa còn đâu?
Vườn cũ quê nhà yêu dấu
Mầu nắng xưa còn lưu luyến
Hương sắc ngừng trôi trước thềm
Còn nhớ hay chăng người ơi!
Chiều nào thầm nghe lá rơi
Ta nắn cung đàn u sầu
Thương ngàn cánh hoa phai mầu
Cho nhớ
thương về quê xưa
Mùa Xuân không còn nữa
Muôn cánh hoa đào phai úa
Lối cũ rơi hững hờ
Nơi ấy bao ngày xanh qua
Hồn thơ mơ màng quá
Yêu những khung trời hoa bướm
Với nắng tơ vàng êm
Yêu sao
ngày thơ ấu
Đất nước chưa thay màu
Những tấm lòng thương nhau
Cười nghiêng nghiêng tà áo
Năm tháng theo làn mây trôi
Ngày thơ xa dần mãi
Nơi cũ dâng sầu tê tái
Sắc bướm hoa tàn phai
Tìm thấy đâu ngày thơ êm ái
(Nguyễn
Hiền - bđd)
Hôm
nay đây, và có lẽ cả trong mai ngày nhiều thế hệ, bạn cũng như tôi sẽ không còn
thấy bơ phờ nhiều giòng chảy tư-tưởng đầy những thở than, lan man một “bồ chữ”,
rất như sau:
“Thưa Cha,
Có
thể nào, cũng xin Cha kể cho đám con cháu còn ngu muội đây, đôi điều về “Linh-hồn
xâm nhập xác phàm loài trẻ bé”. Xâm nhập từ đâu? Khởi từ khi nào? Từ buồng trứng
hoặc tử cung đây? Con có đứa con gái rất đáng yêu từng xảy thai khá nhiều lần
khiến con đây cứ tự hỏi lòng mình là: với các thai nhi chưa kịp mang hình hài
trai, gái xác phàm có chăng linh hồn của trẻ thơ? Linh hồn ấy, hẳn cũng đạt chốn
thiên đường khi chết sớm đấy chứ? Xin Cha bố thí cho con đôi giòng chữ thân
thương giải đáp để con còn biết mà thưa thốt với mọi người, trong ngoài Giáo hội!”
Vâng,
đấng bậc nhà Đạo đây có bố thí cho người hỏi đôi giòng tư-tưởng không “ta bà”
nhiều bến đáp, rất như sau:
“Trước
nhất, theo thiển ý, ta cũng nên tìm về bối cảnh trong đó ta có những hai sự thật
về đời người, ở đời. Trước hết, qua cụm từ “linh hồn” nói chung, mọi người thường
diễn-tả nguyên-tắc sống của mọi sinh-vật trong trời đất. Tất cả mọi sinh vật sống,
từ cây cỏ, thú vật hoặc bản-thể người đều có một thứ gọi là ‘hồn’. Chính cái ‘hồn’
này tạo sự hợp nhất cho bản thể ấy, và theo nghĩa triết-học cái đó được gọi là
‘hình-thức’ của chất vật.
Tuy
nhiên, duy chỉ nơi con người cái hồn này mới mang tính linh thiêng, có khả năng
am-hiểu, tư-duy và thương mến, vv… Rồi từ đó, hồn người mới lại có chính hành-động
tư-tung tự tác, biệt-lập với thân xác rồi cứ thế nó tiếp tục hiện-hữu mãi đến
khi người ấy quá vãng đi vào chốn thiên thu bất tận.
Thứ
hai là, hồn thiêng nơi con người do Thiên-Chúa trực-tiếp dựng nên. Bằng vào lời
lẽ ở Sách Giáo-lý, ta đọc được những lời sau đây: “Giáo Hội dạy rằng: tất cả thần-hồn
linh-thiêng đều do Thiên Chúa trực-tiếp tác thành –chứ không do cha mẹ ‘sản
sinh’- và hồn thiêng con người luôn bất
tử; hồn thiêng không héo rụi khi tách rời khỏi xác thể vào lúc chết và nó sẽ kết
hợp trở lại với xác thân vào ngày Phục sinh sau hết.” Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo đoạn 366; và ở câu 33)
Nhìn
vào lịch sử Giáo hội, ta thấy Aristotle (384-322 trước Công nguyên) dạy rằng: bản
thể người lúc đầu đã có hồn thực vật hoặc hồn cỏ cây, rồi sau đó có hồn cảm-xúc
hoặc hồn thú và cuối cùng là hồn trí-tri hoặc hồn người. Với ông, thì việc nhập
hồn, tức việc hồn người gia nhập thể xác xảy ra 40 ngày sau khi thụ thai, đó là
đối với nam-nhân và 90 ngày với nữ-giới. Vào lúc ấy, mọi người tin rằng chỉ sau
thời gian ấy ta mới thấy có sự chuyển động trong cung lòng người mẹ và chỉ khi ấy
việc người mẹ mang thai mới chắc chắn.
Với
các triết-gia khác, nhóm Khắc Kỷ chủ-trương rằng hồn thú chỉ thành hình sau khi
sinh ra, tức vào lúc thú con tiếp xúc với không khí và sau đó mới đổi thành hồn
có lý-trí vào độ tuổi 14 thôi. Các triết-gia theo thuyết Êpicure và Pythagore lại
tin rằng hồn thiêng khởi sự hiện-hữu ngay vào lúc thú mẹ thụ thai.
Giáo
hội thời đầu, có rất nhiều vị chuẩn-nhận lập-trường của triết-gia Aristotle.
Nhưng, ý-tưởng bảo rằng hồn thiêng thấm nhập thể xác vào lúc thụ thai lại cũng
được mọi người chấp-nhận ngay từ thế kỷ thứ 3 và sau đó thánh Grêgôriô thành
Nyssa lại cũng xác-nhận sự thật này vào thế kỷ thứ tư.
Mãi
sau này, quan-điểm của Aristotle mới trở-thành lập-trường của nhiều người hơn
nữa là do họ đặt nền-tảng trên sự tin tưởng bảo rằng chỉ vào khi thai-nhi đã
thành-hình rồi mới có được hồn người. Đến thế kỷ thứ 5, thánh Âu-tinh mới theo
lập trường này dù thánh-nhân sau đó cũng biện-luận nhiều về sự việc hồn thiêng
mọi loài có khả-năng xuất-hiện trước lúc đó.
Đến
thế-kỷ thứ 13, thánh Tôma Aquinô lại đã công-nhận rất hết mình khái-niệm của
Aristotle chủ-trương rằng phôi-thai ban đầu đã có hồn thực-vật và hồn thiêng xúc-cảm
của con người xuất-hiện vào 40 ngày sau.
Đi
thẳng vào thời hiện-tại, Giáo-hội lâu nay vẫn chưa khẳng-định khi nào thì hồn
thiêng nhập-định. Đây vẫn là vấn-đề còn mở ngỏ, suốt từ lâu.
Thánh
bộ Giáo-lý Đức tin có tuyên-bố thẳng-thừng về chuyện này qua Tông thư
Tuyên-ngôn Phá thai ban hành năm 1974, khi ấy nói rõ: “Tuyên ngôn đây, dứt
khoát để sang một bên vấn đề hỏi rằng: khi nào thì hồn thiêng con
người nhập-định vào thân xác. Về điểm này, truyền thống Giáo-hội
không nói rõ chuyện đó và các tác-giả lại cũng bất đồng ý kiến
về chuyện ấy. Với nhiều vị, sự việc này xuất-hiện ngay vào lúc
khởi đầu; các vị khác lại chủ-trương: ít ra thì, sự việc này cũng không
xảy ra vào lúc phôi thai đi vào cung lòng của người nữ. Và, chuyện
này khoa-học cũng không có thẩm-quyền để phân-định các lập trường
khác biệt, bởi lẽ việc linh hồn bất-tử hiện-hữu không là vấn-đề
đặt ra cho họ.
Đây
là vấn đề triết-học chứng tỏ rằng những gì ta khẳng định về đạo
đức vẫn mang tính biệt lập, vì hai lý-do: thứ nhất, nếu có được sự
sinh động muộn màng đi nữa, thì sự sinh động đó vẫn không là gì hết
so với sự sống con người đang chuẩn bị đón nhận hồn thiêng trong đó bản-chất
người được hoàn tất xuất từ cung lòng của mẹ cha. Mặt khác, điều
đó cũng đủ để nói rằng sự hiện hữu của hồn thiêng này chỉ là
khả-hữu-thể(và không ai lại có thể chứng minh điều ngược lại)ngõ
hầu việc chấp-nhận sự sống bao gồm cả việc chấp-nhận mối nguy hiểm
sẽ giết chết con người, không phải chỉ vì còn đợi chờ, nhưng đã
sở-hữu hồn này rồi.
Thành
thử, dù không biết rõ khi nào thi hồn thiêng nhập-định vào với xác
thể, nhưng ta vẫn nắm chắc rằng nó đã có đó thoạt vào lúc rất
sớm, cả khi người mang bầu bị xảy thai.
Với
ơn cứu độ, Sách Giáo lý Hội thánh quả quyết rằng: trường hợp trẻ
bé chết đi cả vào lúc bé chưa chịu phép thanh-tẩy, Giáo hội chỉ có
thể phó thác bé trong tình thương của Thiên-Chúa và Giáo hội vẫn
làm lễ mồ cho bé như người thường.
Quả
thật, Thiên Chúa lòng lành vẫn mong muốn sao cho tất cả mọi người được
cứu rỗi, và lòng từ-ái của Đức Giê su đối với con trẻ là nguyên-do
khiến Ngài bảo ban các môn-đệ trong Tin Mừng, bảo rằng: “Hãy để con trẻ đến với Thầy, đừng
ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”, (Mc 10:
14). Từ đó, ta có lý để hy vọng rằng vẫn còn đó con đường cứu rỗi
các trẻ bé chết đi trước khi lĩnh nhận bí tích thanh tẩy.” Như sách Giáo lý Hội thánh Công giáo
đoạn 1261 từng đoan quyết. (X. Lm John Flader, The Child and the soul, The Catholic Weekly 27/10/2019, tr.23)
Với
nhà Đạo, các đấng bậc bao giờ cũng thở than, luận bàn về “linh hồn” nhập
vào thể xác cùng lập trường của các giáo phái, giáo luật gồm tòn chữ
“Phải” và “Phải”, tức là toàn những chuyện trăng sao mây nước với hào quang
sáng chói, chứng tỏ đấng bậc lành thánh không thuộc loại “ma trơi”, ma mãnh nhưng
là chuyện thực tế hấp dẫn mọi người trong thiên hạ.
Với
người đời trong thiên hạ, ắt hẳn việc bàn bạc chuyện thực tế trong đời là chuyện
thiết yếu chẳng cần phải trích dẫn điều gì vẫn thu hút người nghe, ở khắp
chốn. Những chuyện hấp dẫn người nghe, tựa hồ truyện kể ở thôn làng này/khác có
giòng chảy nhẹ như sau:
“Truyện
rằng:
Có một người đau khổ tìm
đến tham vấn vị Thiền sư:
-Kính
bạch Ngài, đời con khổ quá, khổ đeo đuổi con như một kẻ ''chạy trời không khỏi
nắng''? Làm cách để đời con hết khổ, cuộc đời chỉ có một màu hạnh phúc mà thôi?
-
Này nhé! Bây giờ ông ra chợ mua một trái Thanh Long, ăn cho hết trái đó, với điều
kiện là chỉ ăn phần thịt và phun hết hạt của nó ra, thì ông sẽ hết khổ.
Và,
lời bàn của người kể truyện lại đã bảo rằng:
“Bạn
biết không, khổ đau trong cuộc đời này giống như muối vậy. Số lượng muối luôn
giữ nguyên, chẳng hề thay đổi. Nhưng khối lượng khổ đau chúng ta phải thọ nhận
còn phụ thuộc vào chiếc “bình chứa” của nó. Vậy nên, khi ta đau khổ, điều duy
nhất con nên làm là mở rộng tầm nhìn của con ra. Đừng an phận làm một ly nước,
hãy trở thành một hồ nước hay một dòng sông hòa tan mọi hết đau đớn trong cuộc
đời này”.
Đúng
như lời những vị thiền sư nói, mỗi con người trong đời đều phải trải qua nhiều
khó khăn hay đau đớn nhưng quan trọng là cách chúng ta nhìn nhận vấn đề. Nhìn
xa hơn một chút, có lẽ chúng ta sẽ nhận thấy được nhiều điều tích cực và rồi nhận ra đớn đau hay gian khó cũng
chẳng hề gì, ta vẫn có thể vui vẻ, hạnh phúc nếu ta thực sự muốn. Vấn đề như thế
nào không quan trọng, điều tất yếu là ta chọn cách đối mặt với nó ra sao.
Bạn
chọn trở thành một ly nước hay cả một hồ nước? Mỗi khi bạn cảm thấy buồn phiền
hay chán nản, cảm thấy cuộc sống mình không hạnh phúc, không như mong đợi thì
hãy nhớ lấy điều này: “Một nhúm muối nếu bỏ vào một cốc nước, cốc nước ấy có thể
không còn uống ược, nhưng nếu được bỏ vào một hồ nước thì nguồn nước ấy vẫn
trong ngọt.
Vì
thế, vấn đề không chỉ đơn thuần là có hay không có một ai đó bỏ một nhúm muối
vào cuộc đời bạn, mà còn là ở: trái tim bạn là một hồ nước lớn hay chỉ là một cốc
nước nhỏ bé?
'Cuộc đời khổ một phần
tư
Ba phần còn lại, khổ từ
chính ta.
Ta là Phật, cũng là Ma
Ma nhiều hơn Phật- Đời
là khổ đau!''
(Như Nhiên Thích Tánh Tọa)
Với
nhà Đạo, thì: cuộc đời có là những chuỗi ngày đầy đau khổ như thế không? Câu
trả lời, cũng tùy từng người. Tùy từng giai đoạn trong cuộc đời mình và đời người.
Nhưng, đời ai đi nữa, cũng đều có chung một kinh-nghiệm xương máu, rất tốt
tươi. Kinh nghiệm ấy, đấng thánh hiền nhà Đạo, từng kinh qua, nên mới bảo:
“Anh
em đang bị lửa thử thách: chớ có ngạc nhiên
Nhưng hãy coi đó như một
cái gì khác thường xảy đến cho anh em.
Được chia sẻ những đau
khổ của Đức Kitô bao nhiêu,
anh em hãy vui mừng bấy
nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh em cùng được vui mừng
hoan hỷ…
Nếu có ai phải chịu khổ
vì danh hiệu Kitô hữu, thì cũng đừng xấu hổ,
nhưng hãy tôn vinh Thiên
Chúa
vì được mang danh hiệu
đó.”
(IP
4: 12-16)
Nơi “nhà
Phật” có giòng chảy thi-ca cũng nhẹ nhàng, hấp dẫn chứng tỏ cuộc đời
người gồm đủ tham, sân, si như bên dưới:
“Lẫn Trong Nhau
Khổ đau là bạn an vui
An vui đích thực không rời khổ đau
Thong dong ngay giữa cõi sầu
Niết Bàn chung một nhịp cầu thế gian.
Trong mưa có giọt nắng vàng
Nơi bùn thoang thoảng.. mơ màng hương
sen
Giữa ngày nghiêng bóng màn đêm
Canh khuya chợp mắt, nắng lên ngập hồn.
Sau niềm vui có nỗi buồn,
Trong tù ngục thấy con đường thoát ly.
Nơi dung nhan tuổi xuân thì,
Có đôi mắt Mẹ xếp li buổi chiều.
Ghét người, bởi chính vì Yêu
Yêu bao nhiêu Hận bấy nhiêu cũng là..
Trong chùa có cả ta bà
Trong ta bà ẩn một toà Như Lai.
Nơi điều '' nghịch ý trái tai ''
Lặng mà nghe - tỏ một bài Pháp âm.
À ơi, dưới võng con nằm
Cũng là giấc ngủ ngàn năm đi về...
Trong phiền não có Bồ đề
Dạt dào sóng gợn.. bốn bề đại dương.
Ngay tim ta có tình thương
Thương như lưới cá - tơ vương.. nhọc
mình!
Trong sinh tử gặp Vô sinh
Bên đời huyên náo lặng thinh Phật ngồi.
Trong ta có cả vạn đời
Lặng yên.. tràn ngập đất trời xưa,
sau..
(Như
Nhiên- Thích Tánh Tuệ)
Đọc
thơ Bồ Đề nhà Phật, hẳn người Đạo Chúa thấy rất thấm và cũng thương cho lòng
người còn bôn ba, ta bà khắp chốn. Cả chốn tu-trì lẫn ngoài đời nhiễu nhương,
tít mù nhiều sương khói. Những sương và khói còn đó nơi cuộc đời con người như
tôi, như bạn, như mỗi người và mọi người, ở đây. Rất vui vầy đầy nhân tính.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những kỷ niệm đẹp
Của
một đời người
Nhiều
ý nghĩa.
No comments:
Post a Comment