Saturday, 27 March 2010

“Những đồi sim, những đồi sim,

đồi tím hoa sim,” Tím cả chiều hoang biền biệt”

(Phạm Duy/Hữu Loan – Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà)

(Ga 16: 20)

Nếu viết nhạc, để nói về mầu tím hoa sim, thì giòng nhạc phải được viết, rất như trên. Tức, như giòng chảy của Phạm Duy. Nếu làm thơ, mà lại nói về tình yêu chung thuỷ với người vợ, vừa mới cưới. Thì, lời thơ nên làm, phải như lời người thi sĩ, rất Hữu Loan. Thơ hay nhạc, về đồi tím “rất hoa sim”, đều mang mác nét trữ tình. Tim tím. Nhè nhẹ. Biền biệt. Như sau:

“Những đồi sim, những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.

Mầu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt.

Và chiều tím có chiều hoang biếc

Chiều tim tím thêm mầu da diết..”

(Hữu Loan – Mầu Tím Hoa Sim)

Thơ với nhạc ở trên, vẫn có câu: “Chiều hành quân, qua những đồi sim”. Hoặc, “áo anh, em viền tà. Nhớ người yêu mầu tím. Nhớ người yêu mầu sim”. Bần đạo, chưa một lần biết đến hành quân, hoặc nhớ người yêu “sim tím”, hồi thời chiến. Vì, chưa từng là lính chiến. Cũng không là “người trai khói lửa”, gì hết cả. Nên, xin ghi lại đôi giòng mang mác. Thi ca. Rất nhạc Việt. Để, nói lên cái “tim tím/tâm thiêng”, mà nhà thơ Nguyễn Hữu Loan, từng tự sự:

“Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng, thì thơ mới hay. Thơ hay, thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình/có tâm, thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó, tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó, tôi khóc như vậy, họ cho là khóc cái tình cảm riêng…

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày…” (x. Tác giả Màu tím hoa sim đã ra đi, http://sn110w.snt110.mail.live.com, 21.03.2010)

Điều hay. Lẽ phải. Và lòng quả cảm, của thơ văn/nghệ sĩ lâu nay, vẫn là: dám khóc cho Tình Yêu. Dám bỏ hết. Cả đảng, lẫn cơ quan. Cả chức vụ, lẫn công ăn việc làm. Rất địa vị. Để giữ lại, chỉ mỗi cái “tâm thật thiêng liêng”, của Tình Yêu, thôi. Tình ấy, có thể là tình chồng/vợ. Có thể, chỉ là cảm/là tình mang mác. Dù, khóc lóc. Cơ hàn. Tủi hổ. Vẫn cứ yêu. Cứ nhớ.

Với nhà Đạo, thơ văn/nhạc tình đều có cả. Nhưng hỏi rằng, đã mấy người dám khóc. Dám bỏ tất cả, cho “Tình Yêu”. Chí ít, là yêu người. Yêu Đấng Bậc, mà mình chẳng bao giờ thấy. Cũng chẳng nghe. Thế mới biết, về Tình Yêu, luôn có sự trùng hợp/ăn ý giữa Lời Chúa, với lời thơ/tiết nhạc. Rất như sau:

“Thật, Thầy bảo thật anh em:

anh em sẽ khóc lóc

và than van,

còn thế gian sẽ vui mừng.

Anh em sẽ lo buồn,

nhưng nỗi buồn của anh em

sẽ trở thành niềm vui.”

(Ga 16: 20)

Xem như thế, trong mọi trường hợp, người khóc lóc/vãn than lại chính là mình. Còn lại, kẻ vui cười sởi lởi, vẫn là thế gian. Người ngoài. Vẫn cười đùa. Bình chân như vại. Thoải mái. Nếu cười người nhiều, thì hãy nhớ câu của thế gian: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười”.

Quả là, Lời Thầy có nói:

“Nỗi buồn của anh em,

sẽ trở thành niềm vui.”

(Ga 16: 20)

Xem như thế, thì khóc lóc/vãn than chỉ là giai đoạn. Ban đầu. Chỉ âu sầu/buồn thảm, một đêm đen. Rất chóng vánh. Mau quên. Dễ sao nhãng. Còn lại, là chuyện lâu dài. Là, niềm an vui. Hạnh phúc. Vô tận. Là, chân lý ngàn đời. Của cuộc sống. Con người.

Trong cõi “tim tím” của tình yêu những thơ và nhạc, lại có bóng hình nho nhỏ. Biền biệt. Da diết. Của người con gái/phái nữ rất yêu đương. Và, đương yêu. Người con gái/phái nữ, thường vẫn yêu cả khi còn sống, lẫn lúc chết. Tình “tim tím”, “biền biệt chiều hôm” kia, cả nhà thơ lẫn nhạc sĩ, chỉ phơn phớt. Nói thoáng qua. Những là:

“Nhưng không chết người trai chiến sĩ

mà chết người gái nhỏ miền xuối.”

(Phạm Duy – bđd)

Hoặc:

“Từ chiến khu xa, nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại,

Lỡ người mình không về,

thì thương người vợ chờ,

bé bỏng chiều quê…”

(Hữu Loan, bđd)

Thực tế, đã diễn ra như lời tự sự của tác giả. Rất nhè nhẹ. Như sau:

“Cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi. Theo tôi suốt cả cuộc đời.” (x. Tác giả Mầu Tín Hoa Sim, bđd)

Chất thơ và tâm thiêng nhè nhẹ, còn nằm trong “ánh mắt nhìn thẳng” ấy. Nhưng tình thơ da diết và nỗi yêu “biền biệt”, nằm ở chữ. Vẫn cứ là:

“Đặc biệt, em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo. Em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn. Lúc thì vài quả ớt đỏ au. Lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn. Những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt…” (x. Tác giả Mầu Tím Hoa Sim, bđd)

Thì ra, yêu đương không cần gì để nói. Khi đương yêu, “bạn tình nhỏ” của mọi người, vẫn cứ quan tâm/săn sóc người yêu, rất từng tí. Chỉ là “quả ớt đỏ”. “Trái chanh mọng nước”. Vẫn bằng cử chỉ nhè nhẹ. Dễ mến. Đáng yêu. Đáng yêu hơn, còn ở điểm: “người yêu bé bỏng” cứ lặng yên thương yêu, chăm sóc chung quanh nhà. Bên bờ ao. Cạnh giếng. Chăm sóc miên triền. Chẳng ngủ trưa. Vì ngủ nghỉ, là hạnh phúc rất “quý phái” chỉ dành cho người mình yêu. Mà thôi.

Với nhà Đạo, một tình tiết rất đáng yêu của “thành viên nhỏ”, trong cộng đoàn thời trước. Cũng nhè nhẹ. Rất đáng yêu. Đáng quý. Ở cộng đoàn. Thành viên nhỏ cộng đoàn, không làm nhiều. Nhưng, kết quả lại không thiếu. Vẫn nhè nhẹ. Thân thương. Ít người biết. Việc ít biết, là việc của “Chị Nuôi” mà thời xưa nhà Đạo có thói quen gọi là “Cô Sáu”. Cô chuyên giùm giúp Hội thánh. Rất thầm lặng. Chẳng bon chen. Đòi tiền. Đòi chức tước. Hoặc, công lênh. Gì hết.

Vừa qua, có độc giả của tuần báo Công Giáo ở Sydney bắc thang lên hỏi “đức thày” nhà Đạo, về vai trò “Cô Sáu” thời Hội thánh tiên khởi. Khi trước. Rất như sau:

“Bẵng đi nhiều năm, tôi được nghe nhiều học giả trong Đạo có nhắc đến vai trò của “Cô Sáu”, thời tiên khởi. Mới đây, tôi lại được một người bạn chỉ cho thấy rằng thì là: theo luật định do Công Đồng Can-Xê-Đô-Ni-a đưa ra, có một số qui định về việc tấn phong các Cô Sáu. Câu hỏi của tôi là: nếu ngày xưa, Hội thánh tiên khởi đã có Cô Sáu, thì bây giờ tại sao không? (Lại một người hỏi han nhưng không ký)

Hỏi mà không ký, vẫn có thể việc của một giáo dân hạng thứ. Rất phụ nữ. Cũng có thể, là chính tác giả, người giải mã. Chỉ muốn nêu vấn đề, chứ đâu muốn nêu tên. Nêu hay không nêu, người giải vấn đề lần này, vẫn là “đức thầy” của Tổng Giáo Phận Sydney, là người “anh lờ em mờ” (Lm) rất John Flader, như sau:

“Câu trả lời ngắn gọn của tôi, là KHÔNG. Vào thời Giáo Hội sơ khai cũng có “nữ phó tế” thật đấy, nhưng các chị không là phó tế theo nghĩa có đủ quyền của chức thánh, rất đúng luật. Các chị vẫn là giáo dân, như mọi người.

Ở đây, chúng ta nên nhớ: tiếng Hy Lạp diakonos là từ ngữ rất thông dụng để chỉ định người phụ giúp hoặc giúp việc, mà thôi. Từ này, không nhất thiết nói về đấng bậc vị vọng đã lĩnh nhận chức thánh, nói rất rõ.

Thánh Phaolô cũng đề cập đến vai trò của “nữ tá viên” trong thư gửi giáo đoàn La Mã, khi ngài nói: “Tôi xin giới thiệu với anh em, chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là ‘nữ tá viên’ Hội Thánh Ken-khơ-rê. Mong anh em tiếp đón chị trong Chúa cách xứng đáng, như dân thánh đối xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh em, xin anh em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo trợ cho nhiều người, kể cả tôi nữa.” (Rm 16: 1-2)

Cụm từ “Nữ tá viên” thời đó chỉ có nghĩa như một nữ phụ giùm giúp, theo nghĩa rộng. Thế thôi.

Từ thế kỷ thứ III trở đi, ở nhiều nơi bên phương Đông, các nữ tá viên được chính thức lập ra hoặc thiết dựng là để phụ giúp, có vai trò tựa như công việc của của một người nữ chuyên hướng dẫn, phụ giúp trong nghi thức rửa tội, viếng kẻ liệt. Các chị là nữ giới, nên được chỉ định công việc tắm cho người bệnh, trao ban Mình Thánh Chúa, cho các vị này, cho tiện hơn.

Vì lẽ đó, các chị thành một nhóm có cơ cấu/tổ chức trong Hội thánh, như phẩm trật của các bà goá. Ở một vài nơi, các chị gia nhập phẩm trật này bằng nghi thức có các đấng bậc đặt tay lên đầu mình.

Nữ tá viên như thế, tuyệt nhiên không lĩnh nhận chức thánh nào hết. Và, hoàn toàn khác với chức linh mục và phó tế theo nghĩa tuyệt đối, như đã nói rõ trong Hiến Chế Tông Đồ, ban hành khoảng năm 400, Công Nguyên: “Nữ tá viên, không chúc lành, cũng chẳng thực hiện bất cứ thứ gì thuộc chức năng linh mục hoặc phó tế, mà chỉ làm công việc đóng cửa/mở cửa, và giúp các linh mục trong việc rửa tội cho phụ nữ, vì tính cách đoan trang. Tiện lợi. Tế nhị.” (Hiến Chế Tông Đồ #VIII, câu 28)

Trường hợp rửa tội cho phụ nữ, vị linh mục xức dầu lên đầu hoặc lên trán người nữ nhận lãnh bí tích, trong khi đó, nữ tá viên vì lý do tinh tế thích hợp, thực hiện tiếp các động tác bôi/xức thêm sau.

Chức vụ, vai trò và ý nghĩa của công việc một nữ tá viên được sắp xếp tuỳ địa phương. Với Hội thánh Ai cập, Giáo hội Ma-Rô-Ni-Ta và Slava, không thấy có chức vụ này. Suốt năm thế kỷ đầu, Giáo Hội La Tinh cũng không thấy xuất hiện các nữ tá viên như thế.

Vai trò và chức vụ của nữ tá viên khác biệt nhau tuỳ thành phần của Hội Thánh. Khác biệt thấy rõ nhất là ở chỗ: không liên quan đến việc thi hành bí tích, vì thần học và khuôn phép của bí tích đều mang tính phổ cập, trong Hội thánh. Khắp thế giới.

Điều này, nói rõ trong Điều luật số 15 do Công Đồng Ca-Xê-Đô-Ni-a ban hành năm 451, như sau: “Phụ nữ nào dưới 40 tuổi không được tấn phong làm nữ tá viên. Và chức vụ này, chỉ được ấn định một cách kín đáo. Giả như, sau khi được tấn phong và thực hiện chức vụ này một thời gian, mà các chị lại coi thường ân sủng của Chúa, đi lập gia đình, thì những người như thế phải bị tuyệt thông, cùng chồng mình.”

Rõ ràng là, tuổi tác ấn định cho các chị, khác với nam nhân khi phong phó tế, cộng thêm đòi hỏi sống đời độc thân, nữ tá viên không thuộc các phẩm trật có chức thánh. Đúng hơn, phải nói: các chị thuộc nhóm phụ nữ trưởng thành có trọng trách giúp đỡ Hội thánh, bằng nhiều cách.

Con số nữ tá viên như thế, suy giảm từ từ với thời gian, ở Phương Đông cũng như Tây Phương. Để rồi, cuối cùng biến dạng hoàn toàn vào thế kỷ thứ XI. (Xem Lm Peter Joseph, Apologetics and Catholic Doctrine, Baronius Press 2009, tr. 594-95)

Xem như thế, có thể nói cách chính xác rằng: Hội thánh thời tiên khởi, không thấy có vai trò và chức vụ của nữ tá viên. Bảo rằng, các chị có quyền như những vị có chức thánh, là một nhận định không có nền tảng.

Chính vì xảy ra có ngộ nhận về vấn đề này, nên Đức Thánh Cha đã ra chỉ thị vào ngày 17/9/2001, trong đó nói: “Toà thánh được báo cáo cho biết: một số nước đang có chương trình thiết lập, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, tấn phong chức phó tế cho phụ nữ. Vì có nhiều người trông mong việc ấy xảy đến, lại không có nền tảng tín lý vững chắc, nên có thể kéo theo một số ngộ nhận, về mục vụ. Vì lẽ ấy, thẩm quyền Hội thánh không thấy có gì là khả thi trong việc tấn phong chức vụ đó, nên nay quyết định rằng: đây không phải là một việc hợp lý/hợp pháp để tháp đặt sáng kiến cho rằng, theo cách thức nào đó, sẽ có việc sửa soạn thuận cho ứng viên nữ được phép lĩnh nhận chức thánh, với tư cách phó tế.” (x. John Flader, The Catholic Weekly, 28/3/2010, tr.10)

Lại một giải đáp, rất chính mạch. Chẳng có gì, để bạn và tôi, ta bỏ giờ ra mà tranh với cãi. Hãy cứ lẳng lặng, mà yêu thương. Yêu, trong nghe/nhìn. Thương, rồi sẽ thấy. Yêu thương trong cuộc đời, ở bên ngoài, còn có những chuyện/những sự việc rất đáng nghe. Cũng nên đọc. Nghe và nhìn, cho đời mình thêm hưng phấn. Nhìn và nghe, rồi cứ mỉm cười. Một mình. Cười rồi mỉm, như chuyện bên lề bài chuyện phiếm. Rất như sau:

“Chồng nói với vợ:

-Em thường mang bức hình của anh theo trong mình, khi đi làm hả? Tại sao thế?

-Ừ thì, khi nào có vấn đề, dù khó cách mấy, chỉ nhìn vào hình của anh là vấn đề ấy, biến mất ngay.

-Thấy chưa? Em có thấy rằng anh tuyệt vời với em đến thế nào, không?

-Có chứ. Mỗi lần nhìn hình, em đều tự nhủ: Còn vấn đề nào lớn hơn vấn đề này, chứ?”

Vấn đề tâm sự hay tự sự của nhà thơ Hữu Loan, còn mang một ý thơ nữa. Rất thông thoáng. Ý nhị. Tuyệt vời. Tuyệt, như lời chàng trai cửu tuần họ Nguyễn, tên gọi rất ư là Hữu Loan, sau đây:

“Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn; bảo rằng: yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt, là hơn cả… Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!”

Chẳng cần biện luận, ai cũng hiểu. Lời văn của nhà thơ, còn là chứng từ cho thần học Tình Yêu, ở đời. Sâu sắc. Yêu đương. Đâu cần nhiều. Yêu đương, nào cần đến áo quần đẹp. Nhẫn cưới. Tiệc tùng. Cùng lễ lạy? Điều cốt thiết, nằm ở “cái tâm”. Ở “tình bền chặt, là hơn cả.”

Cũng giống thế, người nhà Đạo vẫn nói thương Chúa. Yêu Hội thánh, là nghĩa gì? Đâu là chứng cứ? Câu hỏi, đơn giản là thế. Nào mấy ai sẵn sàng có câu trả lời!

Bần đạo không có được lòng quả cảm như nhà thơ, lẫn nhạc sĩ. Ở đời. Nay, chỉ dám đưa ra vài ý tưởng nho nhỏ, để ta phiếm. Cùng kiếm. Và cùng tìm. Sẽ, thấy câu giải đáp. Cũng nhanh thôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn kiếm tìm mà chưa thấy.

Trong khi ấy, giải đáp đã thấy có

ở Thánh Kinh.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com

1 comment:

Anonymous said...

Vui long xem lai MP3 link. Toi khong the download ve nghe duoc. Rat tiec. Toi rat thich nghe cac bai doc cua thay.

Cam on thay rat nhieu.