Sunday 31 May 2009

“Khi người yêu tôi khóc, trời cũng giăng sầu”

Cho từng cơn mưa lũ xoáy trong tâm hồn Khi người yêu tôi khóc thành phố buồn thiu “Em ơi tôi níu một lần yêu ái trên cung ngàn hắt hiu ! (Trần Thiện Thanh – Người Yêu Tôi Khóc)

Mc 13: 24

Chao ôi, là nguồn thơ! Ối giời, là giòng nhạc! Mới chỉ có người yêu của tôi, hay của bạn vừa khóc thôi, mà sao đất trời đã sầu giăng bóng, chốn thiên thu? Giả như, tất cả mọi người yêu trên thế gian này đều khóc, thì chắc đất trời sẽ không chỉ giăng sầu thôi; nhưng sẽ còn quay cuồng, đến sụp đổ. Sụp ghê rợn. Đổ triền miên. Đổ và sụp, là bởi: chắc có thế nào, thì người yêu của tôi/của bạn mới khóc, đến thế chứ? Khóc sướt mướt. Miên man. Nhiều tháng ngày. Khóc hơn cha mẹ chết, để níu kéo “một lần ân ái trên cung ngàn hát hiu” hẳn là “nỗi sầu của đất trời như lũ xoáy trong tâm hồn”, chứ nhỉ?

Thế nhưng, có sự thể là người thời nay không chỉ sướt mướt những khóc và khóc, khi cha chết mẹ chết, mà thôi. Nhưng, còn khóc vào cả khi xảy ra chuyện xấu, những đổ dồn. Như thiên tai. Dịch bệnh. Rất tsunami. Thiên hạ ngày nay cứ khóc đều khi cuộc sống bị dồn vào tình thế, mất tương lai. Tình thế hay tư thế của đời người vừa rồi, lại đã trải qua cơn khổ ải, giống như thiên tai, bệnh lạ đời. Hết cúm gà, bò điên, dịch hạch, lại tai ương. Khiến tương lai của người yêu tôi và bạn, nay tối mù.

Tương lai mù tối ấy, được thánh sử hơn một lần cảnh giác:

“Trong những ngày đó,

sau cơn gian nan,

mặt trời sẽ ra tối tăm,

mặt trăng không còn chiếu sáng,

các ngôi sao từ trời sa xuống,

và các quyền lực trên trời bị lay chuyển.”

(Mc 13: 24)

Thời buổi, trời đất giăng sầu, mất sáng, người người có quan ngại nhiều, cũng không bằng cơn dịch lạ vừa tán phát, mới đây thôi. Chuyện cúm lợn mới đây, tuy không bằng tsu-na-mi, cháy rừng rất ghê gớm. Nhưng cũng khiến người người đều hoảng sợ. Sợ đến độ, có người cho đó là hình phạt Chúa gửi, như Ngài từng gửi đến Sô đôm, và Gô-mo. Sợ đến nỗi, người nghệ sĩ đã ứng khẩu thành thơ, với âm nhạc:

“Em, một đêm cúi mặt

để cay đắng rơi thành giọt lệ đời.

Anh, niềm đau đến muộn

Từng chiều lặng im, nhìn mưa bão tới…” (Trần Thiên Thanh – bđd)

Nhìn mưa bão dịch bệnh tới hôm nay, có nhiều học giả vẫn “từng chiều lặng im” đi tìm một giải đáp. Tìm cho ra căn nguyên dẫn đến sự việc. Để rồi tạo thần dược chủng ngừa hy vọng chữa lành mọi â sầu.

Trong kiếm tìm như thế, có học giả lại đã cho rằng: sự dữ ác thần ở thế gian vẫn bắt nguồn từ hành vi hư đốn của con người. Có vị còn nghĩ: chính vì hành vi “không phải” của con người mà Thượng Đế vẫn “để yên” cho khổ đau lan tràn khắp thế giới. Nói khác đi, các vị cho rằng: sở dĩ ta cứ “cúi mặt để cay đắng rơi thành giọt lệ đời”, là vì người người chỉ biết có cá nhân mình. Cứ vị kỷ. Những lo toan cho riêng mình.

Từ động thái chỉ sống cho riêng mình, nào ai đếm kể gì mọi chuyện “sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi”. Có vị viện dẫn những trường hợp còn ghê gớm hơn. Ghê đến mức độ có thể huỷ hoại toàn cả môi trường. Huỷ hoại nhiều thế hệ, chỉ bằng một vài mầm gien đưa vào thực phẩm, đến ghê rợn.

Rất ghê rợn, nên người nghệ sĩ trẻ hồi đó, đã nỉ non:

“Cho một lần yêu cuối là những lẻ loi,

em ơi hãy nói, vạn lời sầu đắng

như anh vừa trách anh…” (Trần Thiện Thanh – bđd)

Trách anh hay trách bạn, phải chăng vì khổ đau/cay đắng ấy do chính anh/chính bạn gây ra? Chứ đâu là, do Chúa! Đấng chỉ tạo sự tốt đẹp lành thánh. Thế nhưng, ngay như đấng bậc vị vọng đường đường chính chính giám quản một giáo phận lẻ thành Linz, Áo quốc, lại cứ cho rằng cuồng phong Katrina năm trước ở Louisiana, Hoa Kỳ là do Chúa gửi đến, để trừng phạt những kẻ dám lỗi phạm về dục tình. Chuyện mà nhà văn người Pháp Voltaire vẫn cười mỉa.

Suy tư nghiêm túc, bàn dân đi Đạo hẳn sẽ thấy vấn đề đặt ra, chẳng bao giờ giản đơn. Nhìn vào Cựu Ước, hẳn người đọc cứ tưởng Gia-vê Thiên Chúa chỉ là “Ông ngáo ộp”, chuyên trừng trị kẻ phạm lỗi, để làm gương(?). Đầu óc người đương thời lúc đó, vẫn cho rằng Chúa trừng phạt kẻ phạm lỗi bằng cách Ngài cứ “để yên” cho tai ương/dịch bệnh tha hồ mà thao túng tác hại, gây cay đắng, phiền luỵ, lẫn khóc ròng.

Người mang nặng thành kiến về trừng phạt từ Thiên Chúa, lại viện dẫn lời vàng của Kinh Sách:

“Mặt trời sầm tối, ngay khi vừa mọc

và mặt trăng không rạng ánh huy.

Ta sẽ vạch ra ác đức dương gian,

Và hỏi tội kẻ dữ.”

(Ys 13: 11)

Thế nhưng, Đức Kitô Ngài lại bảo khác;

“Đó đây có động đất đói kém..

Các sự ấy chỉ là khởi điểm

của cơn đau cồn chuyển cữ.”

(Mc 13: 7-8)

Đau cồn chuyển cữ, theo tinh thần của Tân Ước, là dấu chỉ dẫn đưa về một kết hậu. Có bé em khôi ngô tuấn tú, rất đĩnh đạc. Đau đớn khổ hình, còn để cùng chung thân phận Chúa chịu nạn, vì yêu thương. Chúa chấp nhận khổ đau/sự chết, để chứng tỏ rằng tai ương/dịch bệnh xảy đến không phải để phạt vạ/cảnh cáo, một ai hết. Ngài từ chối mọi phiền trách, lẫn đổ vấy cho tội lỗi của con người, hoặc cho thế hệ tổ tiên.

Kinh Sách Cựu Ước tuy có dẫn viện quan niệm người xưa, luôn ngộ nhận. Tân Ước hôm nay đả phá cách nhìn như thế, bằng những quan niệm mang tính tích cực hơn. Đức Chúa Nhân Từ, Ngài chỉ quan tâm lo lắng đến tương quan mật thiết với con người.

Đức Chúa của Kinh Sách hôm nay, Ngài không hành xử như vị quan án chuyên luận phạt. Đúng hơn, Ngài là Đức Chúa của Tình Yêu. Ngài khóc với người than khóc, mừng vui với người vui mừng, trong cuộc sống. Ngài luôn lân la, đồng bàn với người cùng khổ. Tội nhân. Một thân phận.

Chính vì thế, người “ở ngoài’ cũng nhận ra hình hài của người Yêu Chân Chính, bằng câu hát:

“Khi người yêu tôi khóc, xin rất im lìm.

Như, từ lâu tôi giấu, những cơn muộn phiền.

Xin đừng đem nước mắt gội xoá niềm đau,

Cho yêu thương đó, em còn được giữ trong tâm hồn rất lâu.” (Trần Thiện Thanh – bđd)

Đúng thế. Chỉ nên giữ lại trong tâm hồn, hình ảnh về Đức Chúa của Yêu Thương. Hài hoà. Cảm thông, thôi. Chứ đừng hậm hực, đổ vấy những “cơn muộn phiền”, cho Ngài. Bởi, dù cho các vỡ đổ có tai hại hơn cả tai hương lẫn dịch bệnh, vẫn không thể nào là hậu quả của hành vi sai trái, rất tội phạm. Tai ương/dịch bệnh chẳng bao giờ mang tính người phàm. Chúng chẳng kỳ thị một ai. Từ kẻ phạm lỗi cho đến trẻ bé thơ ngây, vô tội.

Nếu đổ vấy những thứ ấy cho Chúa, thì làm sao ta tin được rằng Đức Chúa của Yêu Thương vẫn cứ lân la thân mật hết mọi người. Đặc biệt những người đơn côi. Nghèo hèn. Tội Lỗi. Trong khi đó, dịch bệnh lại tha chết cho những tay giàu có, thừa khả năng phòng chống, bằng thuốc men, phương tiện hiện đại, tránh lây lan. Dịch bệnh thật sự, chỉ nhem nhúm chốn thiếu thốn, nghèo hèn. Tủi hổ. Vô phương lẩn tránh. Không uy tín với giới trên cao, làm luật.

Nói cho cùng, thật khó mà đổ vấy nguyên do của dịch bệnh cho Chúa. Bởi, bản chất của Ngài là yêu thương, đâu nhằm trừng trị người cùng khổ, lẫn ốm đau. Bản chất của Ngài, còn là bao dung đùm bọc, có đâu nào thù vặt, lẫn nhiễu nhương. Có thể ngôn sứ thời Cựu trào, cho rằng mình nắm bắt được ý đồ của Gia-vê Thiên Chúa, theo tầm nhìn thiếu khoa học. Ngược lại, tín hữu thời Tân Ước hôm nay, chẳng có bằng cớ để nắm bắt một hiểu biết, đến như thế.

Giả như có sứ thần từ đâu đó, chứng minh được rằng mình nắm bắt/đọc được ý định của Thiên Chúa, hiểu ngầm rằng Đấng Nhân Hiền là Đức Chúa có ý định gửi tai ương/dịch bệnh đến với người lỗi phạm 10 điều giới lệnh, thì ắt hẳn người ấy quyết không là tín đồ mang căn tính Đức Kitô. Tức, Kitô khác. Mà chỉ là thiên tài khùng điên. Vô tích sự.

Đặt giả thiết, nếu chẳng may “thiên thể” nào đó rơi xuống trúng ngay thành phố bạn và ta đang ở, hẳn làm sao ta biết việc ấy là để trừng phạt một thành phố toàn chủ trương những chuyện ngặt nghèo, như: phá thai, giết người qua “an tử”, hoặc còn tệ hơn, đồng thuận việc hợp thức hoá hôn nhân giữa người đồng tính luyến ái?...

Vâng. Vô tích sự đến độ khiến người nghệ sĩ hôm trước cứ kêu lên:

“Anh, niềm đau đến muộn

từng chiều lặng im, nhìn mưa bão tới.

Khi hồn anh rã rời, ngày vui xé đôi, tình ngỡ xa xôi.” (Trần Thiện Thanh – bđd)

Tình có ngỡ đã xa xôi. Hồn có nghi đã rã rời, mới dám nghĩ là: mọi xấu xa, vỡ đổ đều đến từ Chúa. Xấu xa, tệ bạc mà nhiều người cứ hiểu lầm, là do Đấng Hoá Công, chơi khăm gửi đến. Lầm lạc trong hiểu biết như các nhân vật ở câu truyện bên dưới. Truyện rằng:

“Gia đình nọ có 4 nguời con trai. Cả bốn đều khôi ngô tuấn tú. Học rộng. Biết nhiều. Một hôm, ông bố muốn truyền kinh nghiệm hiểu biết với nhận định về sự thể cuộc đời cho các con, bèn sai tất cả ra ngoài mà xem xét cây mận đỏ, ở phương xa. Với lời dặn dò, khi về phải nói cho ông biết nhận định của mỗi người về cây trái ấy.

Ông gửi người con cả đi vào mùa đông, người con thứ vào mùa xuân, người thứ ba, mùa hạ. Và người con út, vào mùa thu. Khi tất cả đã hoàn tất chuyến ra đi, ông gọi về hỏi kết quả một nhận xét.

Người con cả thưa: cây ấy xấu xa, già nua, lại bệnh tật, đáng gom lại bỏ làm củi.

Người con thứ thưa: con thấy cây này phủ đầy nụ xanh tươi, hứa hẹn nhiều hoa trái.

Người con thứ ba, bày tỏ: con không đồng ý với anh Hai. Cây mà con thấy gồm đầy những hoa từ trên xuống dưới, trông rất đẹp. Đây là nét đẹp của cây, con chưa hề trông thấy.

Người con út lại chẳng đồng ý với tất cả các anh, bèn nói: cây này gồm toàn những trái trĩu nặng, đầy sức sống. Rất thành tựu.

Ông bố nhân cơ hội, bèn giải thích: các con của cha nói rất phải. Bởi, mỗi con nhìn vào sự việc lẫn cây cối, chỉ theo giai đoạn của cuộc sống mà thôi. Các con không thể nào phán đoán về người nào, chỉ trong khoảnh khắc cuộc đời họ. Cũng chẳng nói được thâm căn của sự việc, chỉ qua tình huống lúc đó, cũng tợ như tai ương/dịch bệnh. Nếu chỉ nhìn mọi việc theo ánh mắt của mùa đông, ta sẽ quên đi mọi hứa hẹn tốt đẹp đến vào đầu xuân. Cứ quan niệm theo hiểu biết thiển cận, ta sẽ để luột mất vẻ đẹp của mùa hè, thành tựu của mùa thu. Tự trung, đừng để mọi đớn đau sầu khổ do tai ương hoặc dịch bệnh đem đến, mà quên đi mọi hứa hẹn của những ngày tháng tốt đẹp đang trườn đến. Chớ nên phê phán đời người vào lúc khó khăn, sầu khổ. Vì đời người và người đời, không chỉ thế. Nhưng rất đẹp. Hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn.

Truyện kể chỉ có thế. Nhưng người kể cũng kèm thêm một lời bàn, rất “mao Tôn Cương”, mà rằng: Hãy cố mà bền đỗ trong chịu đựng. Vì, ngày mai tươi sáng đang dần dà tỏ hiện. Cứ việc trông mong một nguồn hứng, trước khi tàn lụi trong sầu khổ. Cứ sống giản đơn. Yêu nhiều hơn. Chăn sóc mọi người tử tế hơn. Và, bỏ mọi chuyện để Chúa lo. Lý do là bởi: hạnh phúc giữ cho bạn thêm ngọt ngào. Thử thách làm bạn mạnh mẽ. Sầu buồn giúp mình mang tính người. Thất bại khiến mình thêm khiêm hạ. Thành tựu thúc giục mình càng tăng trưởng.

Tuy nhiên, chỉ có Chúa mới giúp bạn cứ thế mà tiến bước. Chỉ có Chúa mới làm cho bạn quên đi mọi nản lòng. Để rồi, sẽ cùng người nghệ sĩ ngoài Đạo nói ở trên, hát lời ca vui hơn hôm trước:

“Chúa ơi! Chúa ơi! con người không Đạo

Nhưng tin Chúa giúp đời thương đau

Như con tin trong một lần đã lâu,

Những hờn đau thu ngắn

Để đám mây hồng âu yếm giăng ngang.” (Trần Thiện Thanh – Trời Chưa Muốn Sáng)

Hờn đau thu ngắn. Mây hồng âu yếm, sẽ giăng ngang. Đưa người không Đạo hay ngoài Đạo, trở về với hy vọng, mai ngày trời lại sáng. Hết thương đau. Tai ương. Dịch bệnh. Dù cúm heo.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn nuôi hy vọng,

hơn người ngoài Đạo

về tương lai mai ngày

hết đau thương.

Sunday 24 May 2009

“Mưa hoàng hôn, trên thành phố buồn gió heo may, vào hồn”

thoảng hương tóc em ngày qua

ôi người em Hồ Gươm về nương,chiều tà

Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ,hiền hòa”

(Phạm Đình Chương – Mưa Sàigòn Mưa HàNội)

(Xh 31: 12-14)

Hoàng hôn buổi ấy, có cơn mưa chiều, nhiều ảm đạm. Cũng Kiêu sa. Là đà. Ở xứ miền mang tên Pê-tra, sỏi đá. Nước Gio-đan. Mưa hoàng hôn chiều ấy, đã dẫn đưa bần đạo về lại với kỷ niệm thân thương miền đá sỏi. Miền đất, có bề dày lịch sử thánh thiêng. Triền miên đầy kinh nghiệm Có kinh nghiệm trải dài Nê-bô, chốn núi. Và kinh nghiệm, ngày thánh tổ Môsê đặt chân đến. Có Đức Gio-an Phaolô Đệ Nhị, âm thầm nguyện cầu mùa điển tích. Năm 2000.

Trầm mình nguyện cầu trong hôn hoàng buổi chiều ấy, bần đạo lại nhớ tới cộng đoàn nhỏ hân hoan ngày chủ nhật. Cũng âm thầm bầu khí linh thiêng, rất thánh lễ. Có chủ tế vu vơ gạn hỏi, với sẻ chia. Gạn hỏi, để nhập đề. Để, sẻ san bài suy niệm. Gạn rồi hỏi, chủ tế mình vẫn sẻ chia, như sau:

“Trước khi bắt đầu bài chia sẻ cho thánh lễ hôm nay, xin mạn phép hỏi bà con cô bác, các anh chị ở đây, có ai biết: khi xưa, Chúa nói những gì với chư thánh có tâm thành năng đi lễ? Hỏi, là hỏi ngắn gọn tuy rất dễ. Nhưng sao cộng đoàn dân con chiều hôm ấy vẫn cứ thụ động, chẳng trả lời. Khiến, bé em phải giơ tay phát biểu, liền lập tức:

-Dạ thưa, Chúa nói: xin Cha tha tội cho chúng. Vì chúng không biết việc mình làm!”

Trong san sẻ nguyện cầu, chủ tế đã mau mắn đưa ngay câu đáp trả của bé vào làm dẫn nhập cho đề tài suy tư, như sau:

“Thời buổi này, có nhiều anh nhiều chị đi nhà thờ, rất đều đặn. Cũng sốt sắng. Nhưng, chừng như ít người hiểu và biết rõ việc mình đang làm. Cứ thắc mắc với hỏi han: việc làm này mang nặng ý nghĩa gì? Có cần lắm không? Không làm thế, có mắc tội mắc vạ gì không?

Truy tầm một sơ vấn, bần đạo bèn lục lọi mọi tài liệu, may thay gặp câu hỏi/đáp rất ăn nhập, ở trên báo. Thật sự, đây là câu hỏi/đáp xuất hiện trên The Catholic Weekly, tháng 8/2008, với đoạn viết khá “ăn ý/ăn nhập” như sau:

“Nhiều lần, con có nghe người bạn thân đã phân trần, nhiều chuyện kể. Một chuyện cũng không vui cho lắm, trong đó có thể đã là lý do khiến anh giã từ nhà thờ, vì không nhận được câu giải đáp thoả đáng, khá kịp thời. Chuyện anh bàn, vẫn là thắc mắc/vấn nạn từng xảy đến với Giáo hội. Thắc mắc ngoan cường, đại để: có là chuyện bắt buộc, cột chặt ta phải đi lễ mỗi ngày Chúa nhật, không? Nếu không đi, có mắc tội, mắc vạ gì không? Anh cũng nói: sao không thấy Giáo hội Chính thống/Tin Lành, đòi ràng đòi buộc, gắt như thế! Phải chăng Đạo mình cũng thật khó, phải không cha?

Hiển nhiên là, một khi đã có hỏi là có đáp. Đáp khá dài. Dù có hay. Chí ít, là lời đáp rất chính mạch. Trong khuôn khổ nhà Đạo. Theo cung cách của “đấng bậc”, như xưa:

“Đã nhiều lần, tôi từng thưa chuyện cùng quý bạn, là: không phải Giáo hội ta “thật cũng khó”, đâu. Đích thực, Giavê Thiên Chúa đã huấn thị cho dân Do Thái 10 điều giới lệnh, gồm cả thảy. Giới lệnh thứ ba, rõ ràng đề cập chuyện “giữ ngày Hưu lễ”, là như thế. Đàng khác, vì ta biết rõ Chúa là Đấng nào. Lại dư biết, Ngài thương ta thật dường bao. Nên, ta có thờ kính Ngài bằng nhiều dự lễ ngày Chúa Nhật, cũng là chuyện phải lẽ, thôi.

Giới lệnh 3, Gia-vê Thiên Chúa ban cho tổ phụ Môsê, thật gay gắt. Giới lệnh, nói:

”Các ngươi sẽ giữ các ngày Hưu lễ,

vì đó là sự thánh thiêng đối với các ngươi:

kẻ vi phạm hà tất sẽ phải chết.

Vì, phàm ai làm việc gì trong ngày ấy,

mạng nó sẽ bị tiễu trừ khỏi họ hàng của nó.”

(Xh 31: 12-14).

Trừng phạt đến trí mạng, đối với những kẻ không tuân giữ ngày Hưu lễ, như thế đã rõ một điều: Thiên Chúa coi giới lệnh này thật nghiêm chỉnh. May mắn thay, thời buổi này, Giáo hội Chúa không đi đến phán quyết xử tử, những kẻ nào bỏ lễ ngày Chúa nhật! Đúng là thế.

1200 năm sau, ngày Môsê nhận 10 điều giới lệnh của Giavê, vào thời của Chúa, người Do Thái vẫn tuân giữ ngày Hưu lễ, nghiêm túc phúc lệ hơn bao giờ. Vào buổi ấy, có người còn tố cáo Chúa không chịu tuân giữ giới lệnh này cho nghiêm chỉnh, nữa là đằng khác. (x. Mt 12: 1-2, 9-14; Mc 2: 23-28, 3: 1-6)

Cũng vậy, khi nhận ra Chúa là Đấng nào, và biết rõ Ngài đối xử với ta hiền từ ra sao, hẳn ta cũng chỉ mong kính thờ và tuân giữ điều Ngài dạy theo cùng một cung cách như Đức Giêsu khi xưa khuyên dạy. Ngài dạy ta rất rõ, không nên bỏ dự Tiệc Thánh như những lời giản đơn, như:

Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 22: 19)

Làm mà nhớ. Giả như Giáo hội có tuyên bố rằng: bỏ lễ ngày Chúa nhật là lỗi nặng, do ta tự ý, thì đây cũng không là phán quyết độc đoán. Đúng hơn, đây chỉ muốn nhắc con dân Chúa biết rằng: ràng buộc này, tự thân, mang tính cách nghiêm túc. Rất nên làm.

Để giải quyết vấn đề, Đức thày nói: nên làm! Nên làm, là nên tuân giữ giới lệnh 3, như người Do Thái vẫn làm, từ nhiều kiếp. Cả kiếp héo mòn đời, như một nghệ sĩ họ Phạm khác, lại vẫn hát:

“Cô liêu trong nỗi u hoài

lòng người sống lạc loài

thê lương mềm vai gầy

bao oan trái dâng tê tái

cho kiếp người héo mòn tháng ngày…

Mưa còn rơi…

Ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời

Vang trời tiếng cười ấm niềm tin hồn người

Mây trắng vui tươi

Tình quê ngút khơi

Tự do phơi phới.” (Phạm Đình Chương – bđd)

Vấn đề đặt ra hôm nay, không phải để hỏi rằng “thê lương và u hoài, nỗi cô liêu”, khi giữ luật. Cũng chẳng là, niềm “thê lương”, “oan trái” tháng ngày đầy mòn héo. Nhưng là, “tình quê ngút khơi”, “tự do phơi phới”. Tự do, khi nghe đức thày tả thêm về điều răn 3, hãy cứ nghe. Nghe xong, rồi tự quyết. Quyết định lấy, cho chính mình:

“Giờ đây, hãy xem Kitô hữu thời tiên khởi. Các vị vẫn giữ điều răn thứ 3, nghiêm túc đến thế nào. Năm 303, thời kỳ Hoàng đế Dioclêtius bức bách Hội thánh Chúa, rất dữ dội. Dữ đến độ, có nhóm tín hữu gồm 49 người, trong đó thấy có nghị sĩ, cũng bị bắt giữ chỉ vì dám ngang nhiên tụ họp tại nhà thành viên cộng đoàn nọ, để cử hành thánh lể ngày của Chúa, ở Abiten. Là, thủ phủ nằm phía bắc châu Phi, nay gọi là nước Tu-ni-di. Các tín hữu này bị giải lên cho thống đốc Anulinus hỏi cung và quyết định.

Trong số các nhân chứng, đứng ra lúc bấy giờ, có Êmêritus không chút hãi sợ, đã hiên ngang tuyên bố mình từng đón tín hữu ngay tại nhà, để dâng lễ. Và, khi vị thống đốc hỏi: “Vì cớ gì anh lại đón các vị này đến nhà mình? Có phải để phản kháng luật của Hoàng đế chăng?” Ông bèn đáp: “Chúng tôi không thể sống, mà không có thánh lễ ngày của Chúa nhật.”

Tức thì, cả 49 vị đều bị đưa ra pháp trường để hành quyết. Tác giả cuốn ký sự “Công vụ Tử vì Đạo” lời bàn về câu nói của vị thống đốc trích ở trên, khi thấy các tín hữu hiên ngang tham gia cử hành Tiệc Thánh, có nói rằng: “Ôi còn gì ngu xuẩn nực cười bằng câu hỏi của vị quan án! Như thể bảo rằng, mình là tín hữu ngoan Đạo mà lại không cử hành Tiệc Thánh, nghe được sao? Cũng vậy, Tiệc Chúa làm sao thành, nếu không có tín hữu đến tham dự! Hỡi Satăng, ngươi biết chăng: chính Tiệc Thánh Chúa Nhật làm nên tín hữu? Và, chính tín hữu Chúa đã làm nên Tiệc Thánh Chúa Nhật. Không thể có thứ này, mà lại không có người kia. Và, ngược lại?”

Ở đây nữa, nên nhớ: vào thời ấy, Hội thánh Chúa không đưa ra luật lệ nào bắt mọi người phải đi nhà thờ dự lễ ngày của Chúa, hết. Đơn giản là, việc này đã in hằn thật sâu nơi tâm khảm/đầu óc người tín hữu, vốn chuyên chăm. Cụ thể là, tất cả đều nhất quyết không để ngày của Chúa lạt lẽo trôi qua, mà lại không đến tham dự Tiệc Thánh. Dù, việc đó có nguy hiểm đến tính mạng mình, thế nào nữa. Cũng mặc.

Đi lễ ngày của Chúa, đối với ta hôm nay, cũng như thế. Đây chính là điều thiết yếu, chứng tỏ căn tính của người đi Đạo. Không thể có chuyện tín hữu đích thực, không thể có cuộc sống đi Đạo thích đáng, mà lại không tham dự tiệc Thánh, ngày của Chúa. Dù, Hội thánh có tuyên bố: bỏ lễ do tự ý mình, là lỗi nặng hay rất nhẹ.

Việc quan trọng cần làm, là: hãy cứ để riêng mỗi tuần một ngày, dành cho Chúa. Và để riêng một tiếng, cho thánh lễ Chúa nhật, như Chúa nói: “Anh em không thể tỉnh thức với Thầy được một giờ sao?” (Mt 26: 40). (x. John Flader, The Catholic Weekly 8 & 15/6/2008, p. 10)

Cuối cùng, Đức thày giòng họ Flader trở về với giòng chia sẻ của thánh Gioan Kri-zốt-tôm, khi thánh thân so sánh việc dự lễ với chuyện xem xiếc (thời ấy), bóng bầu dục (ngày hôm nay), như sau:

“Ở đám xiệc, chẳng thấy có mái trên đầu che mưa che nằng gió có hoàng hôn, đám đông quần chúng vẫn cứ xem. Họ còn ra như khùng điên la ó, cả vào lúc mưa trút ướt mình mẩy. Cả vào lúc gió lộng thổi vào mặt. Khi ấy, chẳng ai nói đến chuyện đường trường giá lạnh, mưa nắng/bão bùng, chẳng gì có thể ngăn cản họ đến thưởng lãm. Chẳng có gì khả dĩ giữ chân họ ngồi nhà! Thế nhưng, đi nhà thờ dự lễ, thì cứ nại cớ trời nắng trời mưa, dây dưa bùn đất, dễ ngã nhào. Ôi, cũng chỉ nại cớ cản trở mình sống thánh thiện, thế thôi!” (x. M.F. Total, Các bài giảng nổi tiếng ngày Chủ Nhật, tập 2. tr. 137)

Kể ra thì, tâm tình người thời đại, có phản ứng tích cực và tự nhiên, với chuyện nhà thờ/nhà thánh không, đó là vấn đề. Vấn đề, càng trở nên trầm trọng, với người sống ở trời Tây. Rất đầy vật chất, lẫn cơm bánh hằng ngày, chẳng cần xin. Trái ngược với tình hình cơm áo/gạo nước, của người dân nghèo ở phương Đông.

Với người đời, những đầy đủ vật chất với gạo tiền mà lại không có Chúa ở cùng và sống với Chúa, thì giờ giấc tháng ngày trong tuần đều trở thành điều mà người Âu/Mỹ hôm nay “gọi đó nỗi buồn”, của một tuần: Sinday, Mournday, Tearsday, Wasteday, Thristday, Fightday Shatterday. Dịch tiếng Việt, có thể gọi: Chủ nhật Ngày tội lỗi, Thứ Hai Ngày Sầu Vãn, Thứ Ba Ngày Khóc than, Thứ Tư Ngày Phí Phạm, Liệng Bỏ, Thứ Năm Ngày Đói khát, Thứ Sáu Ngày Đánh giết, Thứ Bẩy Ngày Tả tơi Đổ vỡ, rất để đời.

Là những tháng ngày, của một năm, người nghệ sĩ trên vẫn cứ hát:

“Mưa ngày nay, như lệ khóc phần đất Quê Hương tù đày,

Em ngoài ấy, còn nhớ hẹn xưa miệt mài,

Giăng mắc heo may,

Sầu rơi ướt vai

Hồn Quê tê tái…” (Phạm Đình Chương ­ - bđd)

Ướt vai – tê tái, có là tâm tình của những người ngày nay ít đi nhà thờ dự lễ? Điều này, khó có thể hoà nhịp với người ở Phương Đông để đổ vấy cho kẻ sống ở trời Tây. Tựa như thế, không thể bảo, người ở Phương Tây lúc này ít đi nhà thờ nhà thánh, là sẽ chuốc lấy sự vắng mặt của Chúa, trong cuộc đời. Hoặc, chỉ gặp những khóc than, sầu buồn. Tả tơi. Đổ vỡ.

Không nói thế, là bởi: dù có đến nhà thờ dự lễ lạy, mà chẳng tuân giữ giới răn “tóm gọn hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời, sau lại yêu người như mình ta vậy”, thì có bằng nhiều người ở trời Tây, vẫn còn giữ, là tuân giữ tinh thần của “Nước trời” đã hằn sâu im ắng, ở tâm can. Dù có vắng mặt ở nhà thờ. Đó là điều, đà thấy rõ qua động thái thương người bằng cử chỉ đỡ đần giùm giúp, bất cứ lúc nào, ở đâu đó. Bên trời Tây. Như người trẻ, tên gọi Michael McVeigh, trong bài viết mang tựa đề “Bị thương tích, ta tìm cứu chữa, và ta được chữa lành” , có nói:

“Qua kiếm tìm, ta gặp được ý nghĩa của cụm từ chữa lành người bị nạn, biết rằng bản thân mình có thể dễ bể, tả tơi; nên đáp ứng lời kêu gọi giùm giúp với đùm bọc bằng những hành động tương thân tương trợ, rất yêu thương. Mỗi lần giùm giúp, hỗ trợ, ta đều đích thận gặp gỡ chính Chúa, những cội nguồn niềm cảm hứng, tạo hỗ tương. Trường hợp của anh bạn tên Nguyên, họ Phạm, tên Trần nào đó cũng là một ví dụ cụ thể. Có người gọi đó là “sự chói sáng tuyệt vời” của niềm tin.

Thành thử, mỗi khi bạn nghe biết có thiên tai, động đất bão lụt ở đâu đó, hãy nhớ đến họ ít là bằng lời nguyện cầu, hoặc hỗ trợ thực thụ bằng những động thái xót thương giùm giúp. Qua nhận thức biết mình có thể sẻ san nỗi niềm dễ thương tổn, ta sẽ là những người chữa lành rất thực tế. Rất thân thương. Chính nhờ vào nghĩa cử hỗ tương giùm giúp cách thực tế, ta gặp chính sự chữa lành, bồi đắp có ý nghĩa.” (Michael McVeigh, Australian Catholics, số Phục Sinh 2009, tr. 4)

Giùm giúp như thế, là đem nắng yêu thương vào đời, như lời nghệ sĩ lại đã thêm:

“Mưa còn rơi…

Ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời

Vang trời tiếng cười ầm niềm tin hồn người

Mây trắng vui tươi

Tình quê ngút khơi

Tự do phơi phới.” (Phạm Đình Chương – bđd)

Nói cho cùng, mưa hoàng hôn hay “Mây trắng vui tươi” ngày Hưu Lễ. Có thánh lễ. Có tình quê ngút khơi, phơi phới, đều là giới lệnh cần thiết. Cần nhiều hơn tinh thần đầy những luật. Dù, có là luật Hội thánh hay luật ngoài đời. Vẫn Yêu thương, độc nhất một đạo luật. Đạo luật ấy, vượt trội mọi giới lệnh, cần nhận thức.

Trong tinh thần nhận thức lệnh và luật rất cần cho đời và cho người, cũng nên thả lỏng tâm tư/linh hồn theo ngón gió đu đưa có dáng dấp của “Mưa Sàigòn, Mưa HàNội” để mà thư giãn. Thư giãn bằng truyện kể rất nhẹ, rất hoàng hôn, như bên dưới:

“Gia đình tốt lành/đạo đức hôm ấy, vẫn đi lễ như mọi lần. Không hiểu sao, chủ nhật nọ, mẹ hiền hôm đó bỗng cất lên lời bình phẩm, rất công khai:

-Thế này mà gọi là lễ trọng ư? Hát hò gì chẳng khác nhạc ngoài đời. Hoạt cảnh Phúc âm nào có khác gì buổi nhạc sống, nhà hát lớn!

-Ba thì thấy ông cha này, bữa nay giảng dài quá sức. Kiếm mãi không ra bãi đáp để kết thúc, cho bà con mình tỉnh giấc.

Đứa con lên 7 bèn góp ý:

-Con thấy khác. Không đâu biểu diễn nhiều tiết mục như thế, chỉ mất có 1 đô.”

Thật ra, không phải thế. Tất cả, là cố gắng của mỗi người. Và mọi người. Từ cha cố đến dân con, ở nhà Đạo. Nhất nhất đều hiểu, thánh lễ đã là trọng tâm của cuộc sống. Đạo hạnh. Để mất trọng tâm, cuộc sống con người chẳng còn gì, là ý nghĩa.

Vấn đề là, làm sao để cuộc sống mình không trở thành nhàm chán. Lấy lệ. Nhất thứ, làm sao hấp dẫn được người trẻ. Làm sao, để Tiệc Lòng Mến Thánh Thể không còn là thói lệ. Chẳng bắt buộc. Cứ hớn hở. Hăng say. Tìm đến.

Việc còn lại, là quyết tâm của mỗi người. Của cha con. Thầy tớ. Ở nhà Đạo. Trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Cứ bận tâm

suy nghĩ

chuyện lễ lạy

với nhà thờ.