Sunday 6 December 2009

“Ngày đó có ta, mơ ân tình dài”

buồn thắm nét môi, duyên chưa thành lời một thoáng mơ rồi, người về khôn nguôi! người về khôn nguôi!...

(Thanh Trang – Duyên Thề)

(Kh 7: 9)

Nếu bảo rằng, “ngày đó có ta”, thì “mơ ân tình” của người nghèo cũng dài thêm. Rất nhiều. Quả thật, đây cũng là câu nói không đến nỗi quá đáng. Bởi, mơ ân tình của sơ/của Mẹ Têrêxa thành Calcutta được người người cho là rất dài. Quảng đại. Lại rất lớn lao. Cần lưu ý.

Trong đời người, có những sự kiện tưởng như đơn giản, nhưng đã làm nhiều người phấn khởi. Cộng thêm vào việc làm “cần lưu ý”, là những hành xử và lời nói của vị nữ tu mọn hèn ở Calcutta, đã làm “trời đất nổi cơn ghen tức”, những bứt rứt. Bằng vào việc làm đơn lẻ, nhẹ nhàng, Mẹ Têrêxa đã thuyết phục mọi người. Bằng câu truyện nhỏ, kể như sau:

“Đêm nọ, ở Calcutta, chúng tôi bảo nhau ra đường để lượm lặt những hình hài gầy guộc, mà người ta bỏ rơi bên hè phố. Hôm ấy, tôi gặp một phụ nữ đang trong tình trạng nguy cập, sắp chết rồi. Tôi nói với các nữ tu cùng đi, hãy để tôi chăm sóc cho bà ấy, cho hết tình đồng loại. Khi đặt nằm, bà đã nắm chặt lấy tay tôi, mở một nụ cười rất tươi mà tôi chưa bao giờ được thấy trên khuôn mặt của ai khác. Nụ cười tinh tế. Nhẹ nhàng. Vời vợi. Cười với tôi, bà cất lên lời thì thào chỉ một tiếng “cảm ơn.” Xong đâu đó, bà trút hơi thở cuối cùng, bên tay tôi.”(Labastida, One Heart Full Of Love, Servant Books Michigan)

Truyện kể, về công việc của các nữ tu hèn mọn, như Mẹ Têrêxa Calcutta, ta nghe rất nhiều. Truyện nào cũng nhẹ. Cũng có khuyên răn. Kể lể. Nhưng, vẫn thu hút người nghe. Rất nhiều. Như:

“Ta hãy cho đi. Hãy ban phát tình yêu, mình đã lãnh nhận rồi cho mọi người xung quanh. Hãy cứ cho đi. Cho mãi, để việc cho đi như thế sẽ trở thành động tác hy sinh. Cho, là vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi chúng ta, ra như thế.” (Labastida, sđd)

Và, thêm một truyện khác, để minh xác điều mà Mẹ Têrêxa Calcutta muốn khích lệ mọi người:

“Ngày nọ, có cậu bé chừng 4 tuổi, ở Ấn Độ. Cậu cùng với bố mẹ đến đem cho tôi một tách uống nước gồm toàn đường cát trắng. Cậu đưa tách cho tôi, rồi nói: ‘Em nhịn miệng số đường này, đã 3 ngày. Xin Bà hãy lấy phần đường của em, mà mang cho các em nhỏ của Bà, đang thiếu thốn.” (Labastida, sđd)

Những truyện kể nhè nhẹ như thế, vẫn phản ánh được điều mà nghệ sĩ ở trên, đã từng viết:

“Một vì sao sáng, trong đêm lặng lẽ

nhạc buồn sao vắng mênh mông trần thế

ánh mắt sáng ngời, lòng trời u tối

không gian xa vời…” (Thanh trang – bđd)

Không gian và thời gian của những người tất bạt/bần hàn, chừng như vẫn còn rời xa/xa vời, ghê gớm lắm. Hoạ chăng, cũng “năm thì mười hoạ” chỉ mới được có cậu bé nhỏ, lo nhớ đến. Nhớ đến, để rồi nhịn miệng cho đi, chỉ một tách chén ngọt ngào những đường phèn. Vị ngọt của đường, vẫn là sự ngọt ngào thân thương đem đến cho bạn nghèo, những buồn xa vắng. Mênh mông. Trần thế. Bởi thế nên, mới có giòng nhạc chân tình, rày vẫn gửi:

“Tìm đến với nhau, cho quên hận sầu

Ngày đó lứa đôi, vui duyên tình đầu

mộng ước tan rồi, để buồn mai sau…để buồn mai sau!” (Thanh Thrang – bđd)

Buồn mai sau. Hay, buồn dài dài hôm nay, chốn mai ngày, vẫn là nỗi buồn không tên. Không tuổi. Rất lai láng. Lai và láng, trong/ngoài nhà Đạo, rất Hội thánh. Lai và láng, vẫn như ước nguyện của đấng bậc lành thánh, từng kêu lên:

“Xin quý vị và các bạn hãy nguyện cầu cho chúng tôi, để chúng tôi không làm hỏng việc của Thiên Chúa giao. Để, chúng tôi sẽ cùng với quý vị và các bạn, cứ tiến thẳng về phía trước, cho công cuộc này. Bởi, Thiên Chúa vẫn giao cho tôi -cho quý vị, và các bạn- cũng một việc như thế. Bởi thế nên, xin tất cả mọi người, hãy cùng với chúng tôi, ta cùng nhau làm một cái gì đó, cho Thiên Chúa.” (Labastida, sđd)

Trích dẫn mẩu truyện nho nhỏ trên đây, là để muốn nói với bạn và với tôi, rằng: thế gian này. ngày hôm nay, vẫn có những “vì sao sáng” le lói trong đêm lạnh giá, đời nghèo/buồn. Một đời, cần đến tình thương. Cần đến, những vì sao sáng. Rất thánh. Như đấng-bậc-lành-thánh, rất Têrêxa, ở Calcutta. Bên ta.

Trích và dẫn, để còn được hỏi. Hỏi rằng, đấng bậc rất lành và thánh ấy, có còn nhiều? Các đấng bậc tốt lành, được phong thánh, từ hồi nào? Ra sao? Kể, để học hỏi, như thắc mắc của độc giả nọ không biết có lành và thánh không, nhưng cứ hỏi. Hỏi, và được trả lời cũng nhè nhẹ, như sau:

“Tôi vẫn biết vào lễ “Tất cả các thánh” ta vẫn có thói quen cử hành mừng kính tất cả mọi đấng, ở trên trời. Nhưng, có thể nào, xin kể cho chúng tôi nghe, đôi điều, về lịch sử của ngày lễ? Lễ như thế, được mừng được kính lâu mau? Hồi nào? Xin cho biết. Rất biết ơn.

Hôm nay, câu hỏi này, lại được gửi đến đấng bậc hiền lành, của Hội thánh Sydney, là đấng bậc vị vọng rất John Flader, của tờ The Catholic Weekly, có câu trả lời rất nhanh và gọn, như sau:

“Lễ Các Thánh, có bề dày lịch sử, rất sâu. Dày và sâu, nên đã hớp hồn lòng người từng chiêm ngắm, khi về với Giáo Hội, thời tiên khởi.

Theo phụng vụ, vị thánh đầu tiên được Giáo hội mừng kính, là các vị tử đạo. Trong đó, phải kể đến các thánh Tông đồ, tử vì Đạo. Thế kỷ đầu, ta thấy Giáo Hội mừng kính ngày giỗ các thánh tử đạo tại chính nơi các vị, bị tuẫn tiết. Thế nhưng, bốn thế kỷ sau, giáo phận khác cũng san sẻ niềm vinh danh tôn kính hài cốt các vị tử đạo cùng với giáo phận khác. Và việc mừng được tổ chức chung một ngày ta mừng kính các vị tử đạo.

Dù không có hài cốt của các vị tử đạo khi mừng kính, các giám mục địa phận hồi đó cũng đã cho phép mừng lễ thánh tử đạo nào đó, tại giáo phận riêng của các ngài.

Thời bách hại, dưới chế độ hà khắc của Hoàng đế Điôclêtô hồi đầu thế kỷ thứ Tư, con số các vị tử đạo lên quá cao, nên không thể mừng mỗi vị riêng từng ngày được, Giáo hội đành thiết lập ngày lễ chung cho thánh tử đạo nào không có ngày mừng riêng.

Ở Antiôka, lễ này được mừng kính vào Chúa Nhật ngay sau lễ Hiện Xuống, tức sau lễ Ngũ Tuần. Cuối thế kỷ thứ Tư, thánh Êphrêm và thánh Gioan Krizốttômô cũng nhắc đến lễ kính này. Ở phương Tây, hồi thế kỷ thứ V, thánh Maximus thành Turinô cũng đã vinh danh các thánh tử đạo vào ngày Chúa Nhật sau lễ Hiện Xuống.

Lúc đầu, chỉ các thánh tử đạo và thánh Gioan Tẩy Giả, là những vị được minh chứng lòng đạo rất thánh, mới được mừng kính vào những ngày lễ riêng biệt, như thế. Nhưng về sau, các thánh khác cũng dần dà được thêm tên vào danh sách của các thánh. Đặc biệt, là các vị thánh hiển tu thuộc Giáo hội Đông phương lẫn Tây phương, được mừng kính. Từ đó, danh xưng “hiển thánh” được đặt ra để gọi bất cứ vị thánh nào không là tử đạo, theo nghĩa rộng.

Với Giáo hội Đông phương, các thánh tiên khởi được công chúng mừng kính và liệt vào bậc “hiển thánh” sau thời kỳ Giáo hội bị bách hại, có thánh Antôn (chết vào năm 356), thánh Hilariô (chết năm 371), thánh Athanasiô (chết năm 373).

Ở phương Tây, các vị hiển thánh tiên khởi gồm có thánh Sylvétơ (chết năm 355), thánh Matinô thành Tua (năm 397), thánh Sêvêrô (năm 397), thánh Âu-tinh (năm 430) và thánh Apôlinariô (thế kỷ thứ V). Cũng từ đó, con số các thánh hiển tu tăng nhanh đến năm 411 đến độ Giáo hội đã mừng kính toàn thể các thánh chung vào một ngày theo lịch phụng vụ Cađê, là ngày Thứ Sáu sau Phục Sinh.

Lần đầu tiên phụng vụ đề cập đến việc mừng kính các thánh hiển tu vào ngày 1 tháng 11 dường như được công bố vào thời Đức Grêgôriô III (731-741). Vào năm 732, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô III cung hiến nguyện đường tại Đền Thánh Phêrô dâng lên “các thánh Tông đồ, tử đạo, hiển tu và toàn thể các người công chính, thánh thiện đã an nghỉ trên khắp thế giới”. Đồng thời định ra lễ tưởng kính vào ngày 1 tháng 11. Lễ kính vào ngày này, đã được phổ biến qua nước Anh và nước Đức, ngay sau đó.

Thế kỷ sau, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IV (827-844) đã mở rộng cho Giáo hội khắp hoàn vũ để mừng kính các thánh vào cũng ngày 1 tháng 11, mỗi năm. Vào thế kỷ thứ IX và X, lễ Các Thánh được đưa vào “Sách các Phép” với tên gọi bằng tiếng Latinh Natale Omnium Sanctorium, coi như Sinh nhật của toàn thể các thánh Nam nữ.

Lễ này long trọng đến độ được bắt đầu bằng một nghi thức gọi là Buổi Lễ Vọng, khởi từ thời Đức Giáo Hoàng Sixtô IV (1471-1484) có tuần bát nhật hẳn hòi. Buổi lễ Vọng, hoặc nghi thức cử hành phụng vụ vào trước ngày lễ chính, sau này được mọi người nhớ đến bằng tên gọi rất quen thuộc là Halloween, tức tập tục cho giới trẻ vào ngày 30/10 trước đó, có đốt pháo, có hoá trang mặt nạ áo phủ mang hình thù quỷ ma, xương cốt, có lồng đèn bằng “bí ngô”, rất vui và rất nhộn, chiều hôm trước.

Cả nghi thức Lễ Vọng và Bát nhật Các thánh đều bị huỷ bỏ từ năm 1955. Thành thử, truy tầm lịch sử, ta thấy Lễ các thánh quả là có bề dày sâu lắng từ thế kỷ thứ VIII, trở về đây.

Ngày nay, Giáo hội cử hành mừng kính lễ này, là để ứng đáp lại lòng ao ước của mọi người được mừng và được kính toàn thể các thánh nam nữ trên trời. Nhất là các vị hiển thánh không có ngày riêng biệt để mừng kính.

Lễ hội này, mừng kính “triều thần đông đúc không biết cơ man nào mà kể” (Kh 7: 9), về các vị hiển thánh trên Thiên quốc. Và cũng để nhắc nhở con dân nhà Đạo, rằng: tất cả những ai được thanh tẩy trong Thánh Thần, đều được mời gọi sống lành thánh, đầy tràn yêu thương. Lành thánh. Rất khuyến khích. (John Flader, The Catholic Weekly 1/11/2009 tr. 10)

Yêu thương. Lành thánh. Như đấng bậc nữ lưu Têrêxa Calcutta rất lành và rất thánh, từng kêu gọi mọi người, ở đâu đó. Ở cả, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, với những lời và những lẽ, rất đáng yêu. Như sau:

“Xin các bạn, hãy cứ nguyện cầu cho chị em chúng tôi đừng bao giờ làm hỏng công cuộc. Hỏng công cuộc, mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng tôi, cho cả chúng ta nữa. Xin nguyện cầu, để các bạn cũng như tôi, ta không dùng đến những quả bom/quả pháo thuần thục không gian, cùng trái đất. Nhưng, hãy dùng tình yêu thương để thắng thế gian, thắng trái đất. Ngõ hầu đưa thế gian về với Tin Mừng của Đức Kitô. Mỗi người, hãy đứng lên mà công bố với hết mọi người trên thế gian, rằng: Thiên Chúa vẫn hằng yêu mến thế gian. Đến muôn đời. (Labastida, sđd)

Làm được như Mẹ Têrêxa thành Calcutta yêu cầu, những bạn và tôi, ta cũng sẽ trở thành người lành và cũng thánh, không kém ai. Bởi, chỉ có thể gọi các đấng bậc mọi người là lành và thánh, là khi tôi và bạn, khi ta trải dàn được Tình Yêu Thiên Chúa, cho mọi người. Trong thế gian. Chốn điạ cầu. Ở đây. Lúc này. Mãi về sau.

Trần Ngọc Mười Hai

vẫn hằng cầu cho bạn

cho tôi

có quyết tâm

yêu thương ấy.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com

No comments: