Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
(Nguyên Sa & Ngô Thuỵ Miên – Áo lụa Hà Đông)
(Kn 1: 28)
Vẫn biết rằng, màu áo anh yêu chỉ là “áo lụa vàng”. Áo lụa, mà bạn và tôi vẫn yêu, không chỉ là mầu áo, ấy vô cùng. Bởi, nếu chỉ yêu mầu áo ấy thôi, thì tôi và bạn, ta sẽ còn thấy nhiều điều quái gở khác, như lời thơ vớ vẩn của tác giả “Vanh dô” (tức Vô danh nào đó) vẫn cứ nhại:
“Nắng Sài gòn, anh đi mà chợt mát!
bởi vì em mặc áo mỏng làm sao!
Anh ngắm em, mà thấy ấm cả đầu,
Mắt của anh chỉ còn mỗi hai tròng…trắng.” (Thơ nhại của tác giả Ẩn danh)
Nay đã biết, tình yêu không chỉ tình tự đối với bề dày/sắc mầu, của quần áo. Nhưng, còn phải là tình thân thương, với bạn với cả kẻ thù. Nói kẻ thù, sao người người cứ hay nói về người vô thần/quỷ đỏ, làm hại ta. Sao không nghĩ, người đó chính là mình. Bản thân. Cái “tôi”, mình muốn đánh bóng?
Nói cho đúng, cũng chẳng là đánh bóng hoặc dầy mỏng, về cái tôi mà người nghệ sĩ hát:
“Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung,
bay vội vã vào trong hồn mở cửa…” (Ngô Thuỵ Miên – bđd)
Hồn mở cửa, để đón nhận hạnh phúc do mình tạo ra. Hoặc, do người tạo cho mình. Hồn mở cửa, còn để cảm nhận rằng: hạnh phúc/sướng vui vẫn là mục tiêu cuối cùng của đời người. Mục tiêu ấy, vẫn ẩn chứa trong các sự việc vụn vặt trong đời người, mình tìm lấy. Nhất định là như thế. Chắc chắn, là như vậy. Nhưng với bé em còn ngây thơ/thơ ấu, không như thế. Mục tiêu hạnh phúc nhắm đến với bé em, có thể là như ý định của em bé, trong mẩu truyện hài ngắn ở bên dưới:
“Sau gần cả tiếng cùng mẹ ngồi im, nghe giảng lễ, bé Âu Minh Định, nhất quyết nói với mẹ:
-Mẹ ơi! Con quyết rồi, mẹ ạ.
-Con quyết cái gì mà xem ra quan trọng thế?
-Con quyết định là: mai này khi khôn lớn, con sẽ đi tu làm cha giảng, để cho sướng!
-Nghe được đó con. Nhưng, điều gì làm con có quyết định nhanh như thế?
-Dễ hiểu lắm mẹ. Nghĩa là, con cũng sẽ đi lễ thường xuyên ngày Chúa nhật, mẹ khỏi cần giục. Nhưng, làm cha giảng lễ vẫn sướng hơn. Tha hồ đứng ở bục cao trên đó mà la hét, nói thật to. Chẳng ai dám phản đối. Chứ, tuần nào cũng ngồi ở dưới này nghe giảng hoài mà chẳng được đưa ra ý kiến phản hồi gì, chán thấy mồ…
Đành rằng, với bé em hoặc với các em không còn bé, hạnh phúc có thể là như thế. Cũng có thể là khác thế. Khác, với những gì người lớn minh định. Tuy nhiên, không thể vì thế mà các người lớn như bạn và tôi, ta mang trong đầu những quan niệm hoặc ý định, như bàn dân thiên hạ, lâu rày từng thắc mắc:
“Nhiều lúc, tôi nghe biết có nhiều cặp vợ chồng chỉ muốn sướng một mình, chẳng muốn có con, chi cho mệt. Quyết định này làm tôi thấy rất khó chịu. Vì theo tôi, mục tiêu căn bản của hôn nhân, là chuyện sinh con đẻ cái, chứ! Đằng này, ai lại có quyết định trắng trợn như thế! Câu hỏi của tôi hôm nay là thế này: lấy vợ lấy chồng mà định bụng như thế có thành hiệu lực không? Nếu thế thì, đối với những người đã cao tuổi mới tính chuyện lập gia đình, thì sao? Chắc, những người ở tuổi lục thập hay thất thập, có lấy nhau thì cũng chỉ để cho có bạn, chứ sao mà sinh với đẻ gì nữa?
Hỏi, hay không hỏi. Trả lời hay không trả lời, vẫn là tỏ thái độ về chuyện “nên hay không nên” để cho con trẻ hiện hữu trong cuộc sống lứa đôi, hạnh phúc? Nói cách khác, hạnh phúc có còn là hạnh phúc không khi mình chẳng hề muốn có con trẻ ở với mình. Hoặc đi xa hơn, sự chọn lựa của các cặp phối ngẫu có lập trường như thế, có đi ngược lại lời của Chúa?
“Bọn độc ác sát hại trẻ thơ,
bày tiệc uống máu ăn thịt người,
(Kn 12: 5)
Hoặc:
“Thầy bảo thật anh em:
nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ,
thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
(Mt 18: 3)
Dầu gì đi nữa, bạn và tôi, ta hãy cứ nghe giải đáp của một đấng bậc:
“Kế hoạch của Thiên Chúa đối với hai người nam nữ khi lấy nhau là để sinh con đẻ cái nhằm tiếp tục giống giòng, cho nhân loại. Thoạt vào lúc, Thiên Chúa tạo dựng người đầu tiên trong nhân loại, Ngài đã phán:”Thiên Chúa chúc lành cho chúng, và Thiên Chúa phán bảo chúng: Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên dẫy đầy trên đất.” (Kn 1: 28).
“Thiên Chúa chúc lành..” là Lời nói đầy ý nghĩa. Từ chương đầu của Kinh Sách cho đến hầu hết các chương đoạn trong Thánh Kinh, việc thụ thai và sinh con luôn được coi là việc được Chúa chúc lành. Thiên Chúa muốn dân con của Người sinh sôi nảy nở, nuôi con cho nhiều, không chỉ ở cuộc đời này, mà cả ở cõi miên trường.
Để đạt mục đích này, Thiên Chúa ban cho cả loài người, nam cũng như nữ, sức quyến rũ lẫn nhau, để cả hai người đưa nhau vào với tương quan kéo dài, suốt cuộc đời. Trong đời người, họ diễn tả tình yêu lẫn cho nhau, bằng những cử chỉ tự nhiên; đem cho nhau cuộc sống mới. Làm như thế, Thiên Chúa định ra kế hoạch cho hôn nhân và sinh sản, đem đến cho bản chất con người.
Phải chăng, nhận thức được kế hoạch này, mà nhà thơ kia, vẫn hát:
“Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết,
Trời chợt mưa, chợt nắng , chẳng gì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau?
Để anh gọi tiếng thơ buồn vọng lại…” (Ngô Thuỵ Miên – bđd)
Không bảo gì nhau, phải chăng là: không muốn có con, sao anh/sao em chẳng thấy nói! …Để bây giờ… thôi được rồi, hãy nghe thêm lời minh định ở bên dưới:
“Công Đồng Chung Vatican II, cũng có nhắc: “Hôn nhân và tình yêu đôi lứa, tự bản chất, được kêu gọi để con người cùng dấn bước hợp tác vào việc đồng công kiến tạo loài người. Và, giáo dục con cái. Quả thật, con cái, chính là quà tặng tuyệt vời ta đóng góp vào niềm vui của cha mẹ.” (Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng, #50)
Hôn nhân được kêu mời về với việc đồng công kiến tạo loài người, và giáo dục con cái. Để rồi, nếu cặp phối ngẫu nào, ngay từ đầu, không muốn có con, thì hôn nhân ấy kể như vô hiệu lực. Điều này, được ghi rõ trong giáo luật: Nếu như, bên nào hoặc cả hai phiá phối ngẫu, bằng vào hành động nhất quyết sẽ làm như thế, loại bỏ chính hôn nhân ra ngoài hoặc yếu tố nào thiết yêu hoặc tài sản nào cần thiết, thì phía ấy/bên ấy tự đem đến cho mình tính cách bất hiệu lực.” (Gl 1101 #2).
Thái độ mở lòng mình ra với sự sống, với ý định mong muốn có con do Chúa tặng ban, là yếu tố thiết yếu của hôn nhân. Thánh Âu-Tinh cũng từng nói: một trong ba việc, tức yêu tố thiết yếu của hôn nhân có thể kể ra đây, là: sự tốt lành phải có con cái.
Chính vì lý do này, vào lúc trước khi làm đám cưới, cả hai người phối ngẫu vẫn được Giáo hội gạn hỏi , và còn được hỏi một lần nữa, vào lúc trước khi trao đổi sự đồng ý, vào lễ cưới, rằng: “Anh chị có ý định chấp nhận có con cái yêu thương được Chúa phú ban và giáo dục chúng theo luật của Đức Kitô và Hội thánh không?” Khi ấy, cả hai người phải trả lời “có” cho câu hỏi này; bằng không, Hội thánh sẽ không thể cho phép hôn nhân ấy thành hiệu lực.
Việc đồng công kiến tạo loài người và giáo dục con cái là mục tiêu rất quan trọng của hôn nhân thể theo kế hoạch của Thiên Chúa. Không chỉ mục tiêu của hôn nhân như thế mới cần thiết. Tình yêu hỗ tương và sự hỗ trợ thân thương đôi bên, vẫn là chuyện quan trọng.
Đoạn trích từ Hiến Chế Công Đồng “Nỗi Hy Vọng và Vui Mừng” còn nói thêm: “Hôn nhân không chỉ mang tính cách đồng công tạo dựng con trẻ thôi; nhưng, bản chất của hôn nhân là điều không thể tách biệt hai người phối ngẫu nữa. Và, yêu cầu tốt lành có con cái còn để chứng tỏ điều cần thiết là có tình yêu giữa hai người. Tình yêu ấy phải triển nở và trở nên chín chắn nữa. Ở trường hợp hai người nhất quyết không muốn có con, thì hôn nhân vẫn mang tính cách tổng thể của sự thông hiệp sự sống. Chính điều này tạo nên giá trị và tính cách không thể tách rời của hôn nhân.” (“Hy Vọng Và Vui Mừng” #50)
Trường hợp vì lý do nào đó, hai người phối ngẫu mở lòng đón nhận chuyện có con, nhưng không có khả năng sinh đẻ, thì hôn nhân ấy vẫn có hiệu lực. Và, vẫn làm Chúa vui lòng. Đây là trường hợp đối với các người trẻ thấy rằng mình không làm cách nào sinh con và với những người cao tuổi mới lấy nhau. Thông thường, thì trường hợp sau gặp nhiều nơi các ông/bà goá vợ goá chồng nào đó muốn rằng thời gian cuối cuộc đời mình, có tương quan yêu thương và có trách nhiệm với người phối ngẫu mới. Hội thánh vẫn chúc lành cho hôn nhân của các vị và đón chào các vị ấy vào với cộng đoàn tình thương của Giáo hội.” (Lm John Flader, The Catholic Weekly
Thông cảm biết mấy khi ta thấy, người anh hoặc em trong yêu thương vẫn hát rằng:
“Em ở đâu, hỡi mùa Thu tóc ngắn?
Giữ hộ anh, mầu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng…” (Ngô Huỵ Miên – bđd)
Một lần nữa, mầu áo “vô cùng” ấy, anh và em đều thấy, chính là tình thương yêu thể hiện nơi con cái. Nói cho cùng, thương yêu nhau mà không giữ được mầu áo “có con” của thứ tình yêu đích thực, thì anh và em có đi đâu chăng nữa, dù là nắng Cali hay nắng Sàigòn, vẫn chẳng thấy “chợt mát” như hồi nào. Bởi lẽ, như nhà văn/thơ nào đó từng nói: “Yêu, chẳng phải là cứ nhìn nhau mãi, mà là cùng nhau nhìn về một phía.” Phía ấy,luôn hiển hiện sắc mầu yêu đương của “Áo Lụa hà Đông” hay lụa Mumbai, chính là con cái. Ý nghĩa đích thực của tình yêu, giữa hai người.
Để minh hoạ những sự việc ở trên, mời bạn mời tôi, ta nghe thử câu truyện kể rất ngắn, về “mầu áo ấy vô cùng” của con cái, như sau:
“Năm 1939, cha con gia đình nọ, đã trở thành hai nhà sưu tầm nghệ thuật, rất trứ danh. Chẳng bao lâu, thế chiến thứ hai bùng nổ, người con đăng ký tác chiến theo quân thiện nguyện vùng xa, không còn liên lạc. Ít năm sau, có tin người con bỏ mình nơi trận địa, sau khi liều thân cứu mạng một đồng đội, trong lâm nạn. Chiến tranh chấm dứt, ngày mà đồng đội nay về làng tìm gặp cha của người đã cứu mình, được biết cụ là nhà sưu tầm nghệ thuật có tiếng, trong vùng. Gặp cụ, đồng đội của người con thưa: “Dạ thưạ, có lẽ cụ chẳng biết con là ai, đâu. Con là người bạn có mặt bên cạnh, lúc con trai cụ lìa trần. Hôm nay, con đến để xác nhận rằng: trong giờ phút nguy nan, anh chẳng hề kêu rên đau đớn, hoặc tỏ nỗi buồn phiền. Con được biết cụ và anh rất yêu thích nghệ thuật, nên hôm nay con đến biếu cụ một kỷ vật không to lớn là bao, nhưng tạm nói lên tấm lòng cảm kích của con với anh ấy. Xin cụ nhận lời, cho.”
Nói rồi, anh trao cho ông cụ bức chân dung người con trai, vị cứu tinh của anh. Bức tranh không mang tính nghệ thuật. Rất giản đơn. Chỉ vài nét chấm phá, nhè nhẹ. Nhưng, đã làm ông cụ cảm động, nấc lên thành tiếng. Và, người bạn nói tiếp:”Đây là tất cả những gì con có thể làm được cho con của cụ. Anh là người quả cảm, đã hy sinh cứu mạng con.”
Ít lâu sau, ông cụ nhớ con quá, từ trần. Không còn sưu tầm tranh nghệ thuật nữa. Vào buổi đấu giá hôm sau ngày cụ mất, các nhà đầu tư nghệ thuật đến từ khắp nơi, trên thế giới. Và, kỷ vật đầu tiên được đem đấu giá, chính là bức chân dung con trai nhà sưu tầm. Người đấu ra giá vỏn vẹn chỉ $200… rồi $100… cũng chẳng thấy ai giơ tay, mua đấu. Mọi người tìm đến buổi đấu hôm nay, chỉ để mua tranh của Rembrandt, mà thôi. Lúc ấy, ở cuối hành lang, có người dáng dấp quê mùa tỉnh lẻ, lên tiếng: “Tôi sẽ lấy bức chân dung này. Đây là một bức tranh rất quý, dù không phải của họa sĩ nổi danh. Nhưng tôi chỉ còn đúng 10 đô, xin cho tôi thiếu chịu được không?” Ban đấu giá hội ý xong, đồng thuận bán cho người đấu vừa lên tiếng. Về sau, được biết ông là thợ làm vườn cho cha con nhà sưu tầm. Mang tranh về xem, mới vỡ lẽ bên trong có cài di chúc, nói: “Ai mua bức chân dung này, sẽ được thừa tự toàn bộ cơ sở, và tài sản nghệ thuật của chúng tôi, để trong đó.”
Thành ra, nói gì thì nói, trong cõi “trời mơ”, đầy nghệ thuật, vẫn luôn cần đến người con đóng góp và hợp tác, về mọi chuyện. Tình cha con/con và cha ở đây sẽ không thể có được nếu như bậc cha mẹ, các cặp phối ngẫu cứ lấy nhau mà chẳng muốn có sự hiện hữu của con cái.
Con cái, chính là quà tặng của Đức Chúa. Là, kết quả của Tình yêu. Là, ý nghĩa của cuộc đời. Thiển nghĩ, cuộc đời này chỉ gồm toàn những cặp phối ngẫu đơn độc theo ý muốn, thì cũng chán. Chán hay không chán, đó vẫn là vấn đề đặt ra cho mọi người. Hôm nay. Ở mọi nơi. Chí ít là cộng đồng dân Chúa, vẫn được nghe bảo, rằng:
“Hãy để các con trẻ,
lại với Thầy,
vì Nước trời là của chúng.
Nước Trời hôm nay, tưởng vẫn cần đến con trẻ. Và, những cặp phối ngẫu có tinh thần của trẻ con.
Trần Ngọc Mười Hai
thường mong được hát
bài áo lụa “tình yêu”
với nhiều người.
No comments:
Post a Comment