Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm
A 22/12/2019
“Xin tình yêu giáng sinh,
trên một quê hương cằn cỗi,”
Xin tình yêu giáng sinh, trên địa cầu
tăm tối.
Xin tình yêu giáng sinh, trong lòng
người hấp hối
Xin tình yêu giáng sinh, trên cuộc đời
lầy lội.”
(Phạm
Duy – Xin Tình Yêu Giáng Sinh)
(Gioan 1: 10-11)
“Tình Yêu Giáng Sinh”, phải chăng là thứ tình đã có đó? Nếu
thế thì, ta còn xin gì nữa đây. Họa chăng là, người xin đây vẫn chưa thấy Tình
Yêu ở cuối đường hầm, cuộc đời? Nếu thế thì, còn phải xin hoài xin mãi những điều
được hát ở bên dưới:
“Xin tình yêu giáng sinh
Trên quê hương ngục tối
Xin tình yêu giáng sinh
Trên địa cầu gian dối
Xin tình yêu giáng sinh
Trong lòng người tội lỗi
Xin tình yêu giáng sinh
Trên cuộc đời nổi trôi.
Mười ngàn đêm đau thương
Ôi trường thiên ác mộng
Mười ngàn đêm của hờn
Mười ngàn đêm của giận
Trên vũng lầy vô tận
Chỉ thấy máu và xương
Trên vũng lầy vô tận
Chỉ thấy khóc và than
Mười ngàn đêm đau thương
Mười ngàn đêm đoạn trường
Mười ngàn đêm oan khiên
Mười ngàn đêm đau thương.
Xin tình yêu giáng sinh
Cho một lần hoa nở
Xin tình yêu giáng sinh
Cho một lần ngực thở
Xin tình yêu giáng sinh
Cho một lần cửa mở
Xin tình yêu giáng sinh
Tình yêu của chúng mình.
(Pham Duy - Xin tình yêu giáng sinh)
Nhạc
sĩ họ Phạm nhà ta quả thật rất ngộ. Suốt cuộc đời, đâu ai thấy ông xin thứ gì
đâu! Bởi, ông đã có tất cả: vợ đẹp con ngoan, tiếng tăm lại nổi như cồn thì còn
gì để xin nữa cơ chứ. Vả lại, xin những gì? Xin ai đây? Thôi thì, ông có xin
hay không cũng được. Nay, ta đi vào địa hạt đạo đức, xem nhà Đạo mình từng xin những
gì? Và được gì?
Nhưng,
trước khi đi thẳng vào vấn-đề, tưởng cũng nên tìm trở về vùng trời truyện kể có
những mẩu chuyện khá đáng kể như sau:
“Truyện
rằng:
Edison, người phát
minh ra máy phát âm đầu tiên, một hôm đứa cháu nội nhìn ông và hỏi:
- Nội ơi ! Có thật là nội đã phát minh ra chiếc máy phát âm đầu tiên không?
Edison trả lời :
- Cháu à, thì còn ai nữa, nội là người đàn ông đã phát minh ra máy phát âm đầu
tiên, thế nhưng còn có người giỏi hơn nội nữa đã phát minh ra máy nói không cần
điện.
Bé gái nội:
- Là người nào vậy nội:
Ông nội:
- Là Ađam đó con à.
Bé gái tròn mắt:
- Thế còn cái máy tên gì vậy?
Ông Nội cười to:
- Là Evà đó!
Bé gái: !!!???
Thấy cháu bé chưa lấy
gì ngạc nhiên cho lắm, ông nội bèn kể thêm câu truyện khác gọi là Giấc Ngủ Bình An Cuối Cùng của Ađam:
“Một
hôm, Thiên Chúa gặp Ađam đang ngồi nghỉ chung quanh đàn thú đủ mọi loài với nét
mặt buồn thảm. Thiên Chúa hỏi:
- Ađam,
sao ngươi buồn thế?
Ađam
thành thật:
- Thưa
ngài, con không có bạn để tâm sự ạ.
Thiên
Chúa động lòng thương và làm cho ông say ngủ. Thế rồi, Ngài rút ra chiếc xương
sườn của ông để tạo nên người đàn bà. Vừa rút, ngài vừa nhìn Ađam ngủ và tội
nghiệp nói:
- Con à, Ta làm như thế vì muốn theo ý con đấy nhé, nhưng đây là giấc ngủ bình
an cuối cùng của con đó.
Vừa
kể xong, thì “bà nhà” bèn nhắc nhở: “Chừng
như chyện này, ông nội kể rồi thì phải?” Chừng như là như thế. Thế nhưng, kể
rồi nay kể lại đâu đã nhiều. Nhất thứ là, lúc này người kể đang thiếu rất nhiều
truyện vui đại loại như thế. Thôi thì, nếu bạn nghe kể thế đã chán, ta sang
chuyện khác.
Có
truyện kể khác, tuy không trực tiếp liên-quan tới vấn-đề ta đặt, nhưng cũng bao
gồm đôi ba ý tưởng để suy-tư, rồi cài đặt vào đâu đó, cũng tùy.
Truyện
kể, là truyện những kể rằng:
“Ngôi
làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì mưu sinh, thường lợi
dụng đêm tối lẻn vào vườn rau nhà người khác hái trộm. Anh ta nghĩ bóng đêm đồng
lõa với việc làm của mình...!
Hôm
đó anh ta đưa cả con trai đi cùng. Khi người cha vừa mới nhổ một cây củ cải, cậu
con trai thơ ngây thốt lên:
- Cha..cha..có người
nhìn cha kìa!
Cha cậu kinh hãi, ngó
nhìn bốn phía, hoảng hốt:
- Người đó đâu?
Đứa trẻ chỉ tay lên trời:
- Vầng trăng đang nhìn
cha đó!
Người
cha nghe con trai nói vậy, đầu tiên cảm thấy sững sờ, tiếp đó thấy hổ thẹn vì
hành vi của mình. Trong tâm khởi chút phiền não, bất như ý nhưng mầm thiện trỗi
dậy, anh ngộ ra, hoan hỷ dắt con trai về nhà. Dọc đường, anh sám hối:"Trộm
cắp tạo nghiệp rất lớn, có lẽ Trời Phật từ bi, mượn lời con trai để giúp mình
giác ngộ, từ nay phải tu sửa hướng thiện thôi!"
Lại
nói đến chủ nhân của vườn rau. Vì thường bị mất trộm, vô cùng sân hận, đêm hôm
đó ông đã sớm núp ở sau nhà rình bắt kẻ trộm. Khi nhìn thấy trộm, định hô hoán
thì bỗng nghe giọng non nớt trẻ thơ ông sững người.
Dưới
ánh trăng, chủ vườn rau nhìn rõ gương mặt của tên trộm. Biết gia đình hắn nghèo
khó nhất trong thôn, thấy cha con hắn lặng lẽ dắt nhau rời đi, ông cũng bất
giác ngẩng đầu nhìn trăng.
Vào nhà ông kể chuyện với
vợ. Vốn nhân hậu, người vợ nhẹ nhàng:
- Trăng kia chẳng phải
cũng đang nhìn ông sao?
Cả
đêm đó, ông chủ trằn trọc không sao ngủ được. Trưa hôm sau ông chạy đi tìm hai
cha con người hàng xóm:
-Này
anh, tôi hiện cần thêm người làm, anh có thể giúp tôi được không? Ngoài tiền công,
hàng ngày anh có thêm ít đồ ăn mang về.
Khuôn
mặt rạng ngời, người cha nghèo khổ hồ hởi nhận lời và không ngớt cám ơn người
láng giềng tốt bụng.
Khuya
hôm đó, người cha nghèo khó nắm tay con trai, lặng lẽ ngồi ngắm trăng, bỗng đứa
trẻ hồn nhiên:
- A...a...! Cha ơi...!
Trăng đang cười kìa...!
Lúc này ở nhà người chủ
vườn rau, ông cũng đang cùng vợ ngắm trăng, ông hoan hỷ:
- Ồ! Bà xem trăng đang
cười kìa...!
Người xưa có câu:
Người đang làm - Trời
đang nhìn.
Thiện - Ác khác nhau ở một
niệm...!
Tâm như nước. Phật như
trăng.
Nước trong thì trăng hiện.
(St sưu tầm)
Hôm
nay, mai ngày và mãi mãi, Ông Trăng Muôn Thuở cũng đã và đang nhìn xuống nhân
gian mỉm cười. Ông không chỉ cười mỉm thôi, nhưng còn lấy làm sung sướng được ở
cùng và ở với nhân gian/phàm trần, như lời Đấng thánh hiền từng bảo ban, sau
đây:
“Ngài
ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Ngài
mà có,
nhưng lại không nhận biết
Ngài.”
(Gioan
1: 10-11)
Ở giữa thế gian, nhưng Ngài không thuộc về thế-gian.
Và, “thế-gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài!” Đây có
lẽ là nhận xét để đời, xuất từ nhà Đạo. Nói cho đúng, từ người viết lịch-sử Đạo,
ở trong Đạo. Hoặc đúng hơn, là: người trong Đạo lại thích viết về sử. Bởi thế
nên, ta có được nhiều giòng sử rất đạo mạo, nhưng chưa chắc đã phải Đạo.
Có đấng
bậc trong Đạo, tuy không là sử-gia về Đạo, nhưng lại cũng viết nhiều điều về Đạo
rất có lý, như sau:
“Thánh Luca viết trình thuật về ngày Chúa Giáng Hạ là viết cho người đọc
sống cùng thời. Có người hỏi: nếu thánh sử sống vào thời đại rất hôm nay, hẳn
thánh nhân sẽ dùng văn phong cung cách khác hẳn thời buổi trước? Đúng vậy nên,
người đọc và nghe trình thuật hãy cứ tưởng tượng một cảnh trí qua đó, thánh
nhân tay cầm máy vi âm, miệng lưỡi hùng hồn kể những điều rất như sau:
Thập niên đầu thuộc thiên niên kỷ thứ ba, vị tổng thống đại cường quốc
số 1 thế giới, đã nhân danh tư cách lãnh đạo toàn thế giới, quyết định lập tổng
kiểm tra dân số để, nhân đó, điều tra về vũ khí giết người hàng loạt, do
Taliban sắm tậu từ một nước Hồi giáo ở Trung Đông. Đây là lệnh tổng kiểm tra
lớn nhất từ trước đến nay, trong thời gian gần đây, khi toàn thể thế giới vẫn
lo ngại về một thế chiến sẽ bùng nổ rất sớm, nếu không kịp ngăn chặn.
Vì là kiểm tra kê đặc biệt, nên người dân mọi nước đều phải chuẩn bị về
quê thôn làng của mình. Kẻ, thì tòng chinh nhập ngũ. Người, mua tậu vũ khí rất
tối tân hy vọng có thể cầm cự qua cơn bĩ cực mong ngày thái lai. Ai nấy đều lo
toan quay về chốn miền sinh sống cũ theo đoàn/nhóm ngôn ngữ, sắc tộc, và tín
ngưỡng. Bởi, chiến tranh có thể bộc phát bất cứ lúc nào. Và, ngòi nổ chiến
tranh có thể xuất phát cả từ thôn làng hẻo lánh, ở khắp nơi. Dù, thế giới thứ
ba. Châu Âu hay là châu Á.
Trình thuật tiếp tục kể về nhân vật thuộc sắc tộc ngoại bang, đang lang
thang rày đây mai đó, ở đâu đấy. Ông có gốc nguồn là dân tộc Do Thái. Thuộc gia
đình lao động loại cần cù. Mọi người đều gọi ông bằng tên tục rất thân quen, bố
già Giuse. Bố xuất thân tận đất miền làm việc chẳng từ nan, cũng theo lệnh trở
về nơi chôn rau cắt rốn, để làm thống kê.
Cùng đi với ông có người vợ trẻ đang mang thai gần ngày sinh. Hai vị tìm
mãi không thấy nơi nào thích hợp để ở cữ. Nói gì đến việc tìm nơi ở vừa tiện
lại vừa túi tiền được. Theo lệnh của lãnh đạo ở cấp cao, nên bà con lũ lượt trở
về, thi hành lệnh. Do đó, nhà trọ và khách sạn đều hết chỗ. Hiền mẫu trẻ, đành
hạ sinh em bé rất hiền hoà, ở góc bụi. Nơi công viên ít người héo lánh. Bà tìm
vội ba tấm vải thô làm tã lót quấn thân mềm của em bé. Cũng chỉ qua quít để Hài
Nhi thấy bớt lạnh, ngày Đông giá.
Ở cạnh đó, thấy có đôi phần tử “tứ cố vô thân” thay nhau để mắt canh
chừng kẻ làm hỗn. Hầu tránh khỏi mọi trục trặc xảy đến lúc tối trời. Chính vào
lúc ấy, họ phát hiện ra bé em đang nằm gọn trên đôi tay bà mẹ trẻ. Mẹ vỗ về em
bé với lời ru ời ợi, cạnh “Bố già” có dáng vẻ khá thấm mệt, dính bụi đường xa.
Trước cảnh tượng ít thấy xảy ra, đám “bụi” lân la cùng mấy chú khuyển trông ngó
bé em bằng cặp mắt rất thân thiện.
Với đám người “sống vô gia cư
chết vô địa táng” chuyên “lang bạt kỳ hồ”, thì lệnh tổng kiểm tra có ghê
gớm đến thế nào đi chăng nữa, cũng chẳng làm họ bận tâm. Điều, khiến họ bận đến
tâm can hơn cả là: ngó chừng cho bé em qua được đêm dài nhiều trắc trở. Với họ,
thân phận của bé em chắc rồi cũng sẽ đổi dời cả một thế hệ. Bởi, chỉ sự hiện
diện của bé em thôi, đã đem lại cho họ cả một an bình họ tìm mãi, vẫn không
thấy.
Kể từ đây, kẻ không nhà không cửa như họ, nay mới biết thế nào là niềm
vui đích thực khi gần cận với bé em. Niềm vui ấy, nay thấm nhập thẳng tận tâm
can khiến họ cứ đi đây đó mà kể lại cho bạn bè đồng trang lứa. Kể, để mọi người
biết chuyện mà tìm đến. Tìm, để được bình an trong tâm hồn. Đến, để phổ biến
tin vui an bình, Ngài vẫn hứa. Đồng giọng với họ, có đủ mọi giọng ca vang từ
đâu đến hát khen những nốt nhạc, thật sự vui.
Càng vui hơn, khi mọi người nhìn được tận mắt ánh thân thương mẹ hiền
nhè nhẹ trân trọng mừng đón cảnh tình của bé em. Điều đó, đủ chứng tỏ cho họ
thấy Bé đích thực là Đấng mà mọi người đợi trông.
Càng vui nhiều, khi người người nhận ra sứ vụ của thiếu niên Giêsu nay
khôn lớn, đã trở về thôn làng quê mẹ sống đời thầm lặng những lao động và lao
động, nối nghiệp người bố đời từng là công nhân, tạm kiếm sống. Đến ngày “N”
vinh hiển, Ông lại đã cùng đồ đệ và người thân đặt chân ghé viếng khắp nơi,
từng xóm làng nghèo nàn hẻo lánh. Mỗi nơi, khắp chốn Ông cùng đoàn người thăm
viếng từng nhà. Hỏi han từng người. Khuyến khích họ thực thi ý định của Cha, là
tái lập cuộc sống có vui mừng thực sự. Biết yêu thương, giùm giúp hết mọi
người.
Bạn bè người thân trong cùng nhóm với Người, từ khi ấy, cũng đã đi khắp
đó đây phổ biến sứ điệp Chúa gửi gắm: Nước trời đã gần kề. Hãy trở về mà sám
hối. Hãy sống cùng nhau dựng xây Vương Quốc của Chúa, ở trần gian. Ở nơi đó,
người người sống theo cung cách lao động tuỳ khả năng, hưởng thụ tuỳ theo nhu
cầu, rất Nước Trời. Cũng từ đó, sứ điệp Bình An của Nước Chúa, đã nhanh chóng
lan toả khắp nơi nơi. Khiến mọi người đến với nhau, trong tinh thần hoà hoãn.
Yêu thương. Đùm bọc.
Chính đó, là khúc gai nhọn thách thức giới cầm quyền, khiến họ cho người
theo dõi. Cuối cùng, đám cầm quyền bèn sai ba quân đến, lấy cớ để điều tra,
nhưng đích thực ra lệnh tống giam Người vào ngục tối. Sau đó đã cho người đến
thủ tiêu, phi tang mọi bằng cớ. Để mọi người không còn biết Ngài là ai. Sao
Ngài lại thế.
Nhà cầm quyền muốn triệt hạ Ngài bằng mọi phương cách gian giảo nhất.
Nhưng ba quân cầm quyền chẳng làm sao ngăn chặn được làn sóng người từ khắp nơi
nay nghe biết, đã bắt đầu thực hiện những điều Ngài dạy răn, cứ thế mà lan
truyền học thuyết nhân từ Ngài chủ trương: lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Học
thuyết ấy, nay trở thành sự thật rành rành gắn chặt tâm can của con người.
Kể từ đó, mọi năm cứ vào ngày này, hậu duệ của Ngài ở khắp nơi cứ thế
họp nhau mà mừng kính sự kiện “có một không hai” trên cõi đời. Gặp ai cũng thế,
người người kể cho nhau nghe chuyện Giáng Hạ của Bé em mang tên Giêsu. Để rồi,
mỗi lần làm thế, họ đều hiểu tường tận ý nghĩa của sự kiện Ngôi Lời Nhập Thể,
nhập cả ơn lành bình an đến với những người được Chúa đoái thương.
Đi đâu cũng vậy,
con cháu Ngài vẫn lập đi lập lại lời ca vang hôm trước, mà hát:
“Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh
em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu
Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã,
nằm trong máng cỏ." Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng
ngợi khen Thiên Chúa rằng:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương."
(Lc 2: 10-14)
“Đừng sợ! Chính Ngài là Đức Chúa. Là, Đấng Cứu Chuộc muôn người!” Đó, là
ý nghĩa của lễ hội Giáng Sinh. Lễ hội, mừng Chúa xuống thế làm người sống với
ta. Thương yêu ta như anh em cùng nhà. Nhà Thiên Chúa. Nhà mọi người. (X.
Lm Kevin O’Shea, DCCT Lời Chúa Sẻ San năm A nxb Tôn Giáo 2017)
“Đừng sợ!” không chỉ là ý-nghĩa và lời nhắn của
việc “Chúa Giáng Hạ Làm Người”. Nhưng, còn là khẳng-định của Giáo hội gửi đến với
mọi người, vào ngày lễ.
Lễ
Giáng Hạ năm nay, không chỉ bao gồm mỗi lời nhắn đó, nhưng còn là và mãi mãi sẽ
là lời quya3 quyết dành cho mỗi người và mọi người, rằng: Chúa Giáng Hạ, đem lại
cho mỗi người và mọi người niềm vui khôn tả và miên trường. Ở mọi nơi. Rất mọi
thời.
Trần
Ngọc Mười Hai
Quyết
sống mãi
Khẳng
định này
Vào
mọi lúc.
No comments:
Post a Comment