Sunday, 20 September 2009

“Ngọc Lan, giòng suối tơ vương”

mắt thu hồ dịu ánh vàng.

(Dương thiệu Tước – Ngọc Lan)

(Mc 9: 35)

Nếu ta gọi, các đấng bậc ở trên cao, bằng tên hoa Ngọc Lan, như thế có quá quắt chăng? Bởi, Ngọc Lan là loài hoa thơm ngát. Suối tơ vương. Mắt hồ thu. Ánh dịu vàng. Trong khi đó, đấng bậc Đạo mình cứ lạnh lùng sương gió, dù có mặc áo tím áo đỏ, khí thế. Hào hùng. Oai nghi.

Gọi gì đi nữa, Ngọc Lan hay tím/đỏ đấng rất hiền, ta cứ hát:

“Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng

tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song.” (Dương Thiệu Tước – Ngọc Lan)

Ca từ, của người nghệ sĩ thế kỷ trước, xem ra cũng thướt tha. Dịu huyền. Dù, chỉ để hình dung nhân vật trọng yếu. Yêu thương. Cảm mến. Cũng và mến, như người nghệ sĩ hôm nay ở “Quán Nhạc Thiện Bản” đã trình bày có hơi khác. Khác, ca từ. Khác, phối khí. Khác, cả nhịp điệu. Nhưng tựu trung, cũng nói về đấng bậc hoặc phó thường dân nào đó, rất quyết tâm. Theo Ngài. Đến cùng:

“Chúa đã có rất nhiều người yêu mến Ngài

Chúa đã có rất nhiều người theo Ngài xin hạnh phúc.

Nhưng Chúa được có mấy người đem Lời Ngài tới muôn dân?

Nhưng Chúa được có mấy ngưới chia tình Ngài với tha nhân?”

(Bosco Thiện Bản – Chúa Đã Có Rất Nhiều Người)

Chỉ mới nghe, hẳn bạn và tôi, ta thấy: Ngọc Lan thơm ngát. Có, “nhành liễu nghiêng nghiêng”, cũng phần nào giông giống người công chính san sẻ tình Ngài với tha nhân. “Người thế đó”, khoác áo “chiến y”/“long bào”, mầu tím/đỏ, trắng đen, thì làm sao ta theo kịp. Được theo Ngài về muôn lối. Tới muôn dân. Vậy thì, mời bạn mời tôi, ta nghe tiếp:

“Chúa đã có rất nhiều người khen chúc Ngài,

Chúa đã có rất nhiều người theo Ngài lúc hạnh phúc

Nhưng Chúa được có mấy người tiếp nhận Ngài lúc bỏ rơi?

Nhưng Chúa được có mấy người giúp đỡ Ngài lúc tả tơi?” (Bosco Thiện Bản-bđd)

Tả tơi. Bỏ rơi, quả là, tình huống rất bình thường. Tình huống, người trong cuộc nhà Đạo, vẫn được nghe Lời Vàng, như hôm trước:

“Ai muốn làm người đứng đầu,

thì phải làm người rốt hết,

và làm người phục vụ mọi người."

(Mc 9: 35)

Và, “người thế đó”, phải thế này:

"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy,

là tiếp đón chính Thầy;

và ai tiếp đón Thầy,

thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy."

(Mc 9: 36)

Đứng đầu. Kẻ rốt hết. Làm lớn. Người phục vụ. Ôi chao, là lời lẽ nghe quen quen, mọi buổi! Và tự hỏi, đã mấy người thấy quen quen, trên thực tế? Nếu chưa, có lẽ xin thêm một lần, hãy lắng nghe lời người trẻ vừa viết nhạc. Hôm nay. Những lời này:

“Con đây, tuy hèn mọn muốn yếu hèn

Con muốn trở thành cụ khí của Ngài.

Xin cho con trở thành đôi tay của Ngài

Xin cho con trở thành tiếng nói của Ngài

Xin cho con trở thành tình yêu của Ngài

Xin cho con trở thành bình an của Ngài.” (Bosco Thiện Bản – bđd)

Trở thành khí cụ. Đôi tay. Tiếng nói và bình an. Và gì nữa? Thế đó, là tiếng/giọng quen quen ta vẫn thấy? Ở đời thường? Vẫn gặp, và cứ nghe “đôi điều”, còn phải hỏi. Như lời hỏi, của dân thường huyện Sydney ghi ở dưới:

“Tôi không quen lắm với những cụm từ hoặc danh xưng trong Đạo. Xin cho biết tước hiệu “Hồng y” có nghĩa gì? Có khác chăng, là những gì nghe được qua danh xưng khác như Giám mục, Tổng Giám mục? Xin dạy cho biết, giáo hội Công giáo Tin Lành/Anh giáo đã có tước hiệu và danh xưng này từ bao lâu? Xin được cảm kích biết ơn, nếu ngài dành một giải đáp.

Và đây là giải đáp. Ngay tức thì. Chẳng cần bạn có là người hỏi đã biết ơn, hay cảm kích. Vì, giải đáp cho một hay nhiều thắc mắc về danh xưng hay xưng danh, nhân vật nào, vẫn là “nghề của chàng”. Chàng trai ở huyện nhà Đạo, gọi là “đức thày” John Flader miệt ” Sydney, sau đây:

“Nói chung, và chỉ nói chung thôi, các vị Hồng y thường là Linh mục hoặc Giám mục, vai vế đứng thứ hai sau Đức Giáo Hoàng. Các ngài có vai trò phụ giúp Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai Hội Thánh Chúa, khắp hoàn cầu. Các ngài có vai trò quan trọng khác trong việc bầu chọn Giáo Hoàng mới, khi đức đương kim Giáo Hoàng thoạt băng hà.

Dù các ngài không thuộc thành phần hiến pháp thánh thiêng của Giáo hội do Chúa lập, thì nguồn gốc của chức tước này đã có từ Hội thánh thời tiên khởi.

Từ thế kỷ đầu, Đức Giáo Hoàng Clêtô, hoặc Anaclêtô (76-88 sau công nguyên), tuân theo chỉ thị của thánh Phêrô, đã tấn phong cho 25 linh mục phụ giúp ngài ở khu vực Rôma, trong công tác mục vụ của giáo phận.

Thể kỳ sau đó, các ngài được bổ nhiệm vào chức vụ gọi là “tước hiệu của Giáo hội” được thiết lập theo danh tánh của các thánh. Và, các ngài có bổn phận giúp đỡ Đức Giáo Hoàng phụ trách phụng vụ tại Vương cung Thánh đường chính là thánh đường Gioan Latêrô, tức Nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng, thánh Phêrô, Phaolô, Đức Bà Cả và nhà thờ thánh Laurenxô.

Cộng với các linh mục, có bẩy giám mục thuộc các giáo phận quanh Rôma, được coi là giáo phận vùng phụ cận, để giúp Đức Giáo Hoàng đặc trách phụng vụ tại Thánh Đường Latêrô cũng như giúp ý kiến về nhiều vấn đề khác.

Trong các văn kiện chính thức của toà thánh, lần đầu tiên tước hiệu “Hồng y” được nói đến là vào thế kỷ thứ 8, trong Liber Pontificalis (tức Chiếu Chỉ Giáo Hoàng) dưới triều Đức Stêphanô III (768-772). Theo tài liệu này, các giám mục thuộc giáo phận phụ cận được gọi là Hồng y Giám mục.

Vào cùng thời, Thượng Hội Đồng Rôma năm 769 quyết định là Đức Giáo Hoàng ở Lamã phải do các Phó tế và Linh mục hồng y có chức tước của Giáo hội bầu ra. Các Phó tế chính của Rôma lúc ấy được coi là Phó tế hồng y.

Bởi thế nên, ngay từ đầu, các Hồng y tập trung sống ở Rôma và công tác chính của các ngài là phụ giúp Đức Giáo Hoàng trong công việc có liên quan đến giáo phận Rôma. Mãi về sau, các ngài mới phụ Đức Giáo Hoàng trong những việc của Giáo hội khắp hoàn vũ.

Năm 1059, Đức Nicôla II ra chỉ thị quyết rằng chỉ mỗi các Giám mục hồng y mới có quyền bầu Giáo Hoàng, thôi.

Hồng Y Đoàn theo cung cách hiện tại, cùng các Giám mục hồng y, Linh mục mục hồng y và Phó tế hồng y do Đức Eugiênô III (1145-53), cùng Đức Giám Mục trưởng tràng của Ostia thành lập. Các Hồng y lúc ấy, được yêu cầu nên sống ở Rôma.

Từ thế kỷ 12 mãi về sau, các Hồng y mới được phép sống ở giáo phận riêng của mỗi vị. Và từ đó, các ngài được trao tước hiệu mục tử Giáo hội LaMã. Thói quen này được giữ mãi, đến ngày nay.

Ngày hôm nay, các Hồng y được đích danh bổ nhiệm khắp nơi trên hoàn vũ, là do Đức Giáo Hoàng đề bạt. Các ngài “phải trổi trang về tín lý, lòng đạo đức, sốt mến, có đức khôn ngoan” trong các vấn đề về thực tế. Vị nào chưa có chức Giám mục đều được Đức Giáo Hoàng phong cho chức thánh ấy.” (Giáo luật #351, @1)

Các Hồng Y lập thành Hồng y Đoàn, có vai trò trọng yếu là bầu Giáo Hoàng, ở Rôma. Các ngài phụ Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai giáo hội hoàn vũ, qua tư cách tập thể của Hồng Y Đoàn. Khi các ngài được triệu tập theo điều gọi là Mật Hội Hồng Y để đảm trách các vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu, hoặc vấn đề cá nhân thuộc quyền của các ngài (x. Giáo luật #349)

Qua vai trò vừa kể, nhiều hồng y được đề bạt làm thành viên nhiều Thánh bộ, Hội đồng Toà thánh, và Uỷ ban khác nhau, thuộc giáo triều LaMã.

Theo truyền thống, các hồng y được bổ nhiệm từ phẩm trật phó tế, linh mục hoặc giám mục. Các vị được đề cử làm việc trong giáo triều LaMã, theo phẩm trật phó tế, linh mục có chức năng toàn cầu. Các Hồng y có chức Giám mục, đều được Đức Giáo Hoàng tấn phong tước hiệu và trách vụ làm việc tại sáu giáo phận, miền phụ cận. Các vị Thượng phụ thuộc Giáo hội Đông phương cũng được nâng lên hàng Hồng y. Chủ tịch Hồng Y Đoàn còn có thêm tước hiệu riêng vị Chủ Quản Giáo phận Ostia.

Hồng y nào là Giám mục giáo phận đều không có quyền nào khác đặc biệt hơn các giám mục địa phận. Các ngài có quyền chủ toạ khi các giám mục được mời đến dự hội nghị.

Một số các giám mục tại các nước có số giáo dân khá đông, theo truyền thống, sẽ được Đức Giáo Hoàng tấn phong làm Hồng y. Tỉ như, Đức Tổng Giám Mục Sydney, Wellington, Sàigòn, vv.

Tóm lại, “Chúa được có rất nhiều người”, Ngài có cả những nhân vật nổi danh, lanh chanh như truyện kể, của một vị quên đề tên, ở dưới. Như sau:

“Chuyện người hoạ sĩ vẽ bức tranh nổi tiếng hoàn cầu “Tiệc Ly”, có giai thoại rất ly kỳ:

Leonardo da Vinci tìm người mẫu để vẽ bức tranh này, rất công phu. Trong số hàng ngàn người, ông chỉ kiếm được có mỗi thanh niên 19 tuổi. Anh có gương mặt lành thánh, thanh trong, nên hoạ sĩ Da Vinci dùng anh để vẽ diện mạo Đức Giêsu. Ông làm việc suốt 6 tháng trời. Không mệt mỏi. Sau đó, ông lần lượt vẽ xong 11 tông đồ khác, không mấy khó khăn. Duy có Giuđa là kẻ bán Chúa, phải có khuôn mặt đạo đức, nhưng tráo trở, lừa lọc. Thật rất khó.

Một hôm ông được giới thiệu một người có đủ đức tính và nét vẻ, khả dĩ đáp ứng đưọc yêu cầu mà ông tìm kiếm bấy lâu. Ngặt một nỗi, người ấy là tay tội phạm tày trời, đang bị giam giữ trong tù, ở Rôma. Sau nhiều ngày ngoại giao khôn khéo, ông được phép cho gọi người ấy đến để hoàn tất bức tranh.

Ngày ngày, tay tội phạm ngồi đó trước mặt hoạ sĩ đại tài, cho ông vẽ. Thâm trầm. Bình tĩnh. Cho đến lúc, Leonardo Da Vinci mệt mỏi, nản lòng vì phải chứng kiến diện mạo hung ác trong quá trình dài dằng dặc bèn, cho anh về. Không vẽ nữa. Tay tội phạm, thấy thế bèn quỳ xuống dưới chân ông, mà xin:

-Thưa ngài Da Vinci, xin ngài tiếp tục vẽ như thế để con được ở đây lâu hơn, như lần trước. Ngài không nhận ra con sao?

-Quả thật tôi chưa từng vẽ cho ai có khuôn mặt xấu xa/hung bạo như anh. Anh là ai?

-Thưa, xin ngài nhìn cho kỹ. Con là người mà bảy năm trước, ngài chọn làm mẫu để vẽ dung mạo Đức Giêsu đó…”

Và lời bàn của người kể hay người dịch, nay thêm: “Chàng trai từng được chọn làm người mẫu để vẽ dung mạo Đức Giêsu, chỉ sau có hơn 2000 ngày, nay biến thành hình tượng của kẻ bội phản, gớm ghê nhất trong lịch sử. Tương lai con người, không ai định trước được. Chính ta là người quyết định cho số phận của mình.”

Nói cho cùng, ai được người viết nhạc kể trên gọi là “đấng bậc” hay “nhân vật”, nhân sĩ bậc vị vọng rất cao trọng hoặc chỉ là phó thường dân mà Chúa “đã có” và “được có”, cũng chỉ là những cánh tay nối dài, trên “con đường” rong ruổi. Truyền Đạo. Truyền, tinh thần sống Đạo rất âm thầm. Trầm tĩnh. An vui.

Lời cuối hôm nay, là lời cầu mong Chúa vẫn còn có những “nhân vật” rất hy sinh. Hiền hoà. Mê say. Và quyết tâm, như thế. Với chuyện chung. Chuyện, là chuyện của tôi. Của bạn. Của nhiều người. Ở huyện dân gian. Cõi đời này.

Trần Ngọc Mười Hai

cũng cầu và mong

nói được những lời như thế

với chính tôi.

Với bạn hiền.

(xem thêm các bài khác, xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

hoặc: www.tranngocmuoihai.blogspot.com;

hoặc: www.giadinhanphong.blogspot.com )

No comments: