Wednesday, 1 April 2020

“Tôi như người ru mộng”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 5 Mùa Chay năm A 220320

“Tôi như người ru mộng”
sống cuộc đời bềnh bồng
ngó quanh đời quạnh hiu
Buồn rơi theo năm tháng
chết trên lưng tháng ngày.
                                                (Từ Công Phụng - Đời Bỗng Phù Du)
(Êphêsô 4: 22-24)

Đời Bỗng Phù Du, đâu chỉ là cuộc đời của người ru mộng mà thôi đâu! Phù du hay không, vẫn là cuộc sống hằng ngày, của mỗi người. Và, tác giả bài hát hôm nay lại tiếp tục viết thêm những giòng sau đây:   

“Tôi như loài cỏ dại
tôi như loài cỏ dại
suốt một đời chênh vênh,
suốt một đời buồn tênh.

Em có thương thì xin chút hiền ngoan thật lòng
vì cõi đời này là những đam mê là những chia ly
là những đớn đau lẻ loi
Nên vẫn hoài còng đi se cát
Biển nhớ mênh mông
tình vẫn hư không ... đời đời.

Tôi như giòng sông cạn
cuốn quanh đời mệt nhoài
cuốn theo giòng nghiệt ngã
Buồn rơi theo năm tháng
úa trên lưng tháng ngày.

Tôi mang hồn cỏ dại
ngu ngơ tự hỏi lòng
bỗng một ngày thiên thu
bỗng một đời phù du.”
(Từ Công Phụng – bđd)

Phù du hay không, vẫn là cuộc đời của ai đó cả bên ngoài cũng như trong nhà Đạo, như lời hỏi/đáp giữa đấng bậc vị vọng và người đi Đạo, ở bên dưới:

Hỏi, là hỏi thế này:

            “Thưa Cha,
Hôm nay, câu hỏi của con chỉ rất ngắn. Con muốn hỏi về vai-trò của giáo dân trong cộng-đồng Dân Chúa lâu nay vẫn phụ giúp linh-mục trong việc xức tro lên trán giáo dân, theo luật thì như thế có được phép không? Và, Mùa Chay này việc kie6ng khem, chay tịnh thực sự có nghĩa gỉ? (Câu hỏi từ một giáo dân không ghi tên tuổi)

Tuy không ghi tên tuổi, nhưng đấng bậc nhà Đạo nay vẫn trả lời bằng những giòng nhè nhẹ, rằng:   
“Trước nhất, tôi muốn nói cụm từ “cộng đồng dân Chúa” đây không chỉ có nghĩa là các đấng bậc có chức thánh thôi, mà là tất cả mọi người, nam cũng như nữ”. Tiếp đến, ttôi thấy việc giáo-dân phụ-giúp linh mục chủ tế trong việc xức tro lên trán người chấp nhận, chẳng có gì là sai sót.

Về tập-tục xức tro lên trán, dù không có Sách lễ Rôma nào nói hết. Duy, mỗi sách “Ban Phát Phép Lành” là nói đến nghi-thức xức tro và ban phép lành mà các linh-mục thực hiện ngoài thánh lễ. Nghi-thức này, có đoạn chỉ cách như sau:

“Nghi thức xức tro lên trán người dự lễ, có thể chỉ do linh-mục chủ tế hoặc vị phó tế thực-hiện có giáo-dân trợ-lực, nhưng việc này trước nhất dành cho linh-mục hoặc phó tế, mà thôi.” ( Sđd đoạn 1659)

Từ đó, ta nghiệm ra rằng: giáo dân có thể phụ giúp linh mục chủ tế trong việc phát tro tàn xức lên trán trong thánh-lễ, miễn là không làm cho giờ lễ kéo dài một cách quá mức.

Lại nữa, cho dù số giáo dân đến nhà thờ dự lễ Xức Tro vào Thứ Tư quá đông và những ai muốn nhận tro tàn xức lên trán, có khi không thể rước Mình Chúa kịp được, nên thường thì cũng cần đến các thừa-tác-viên phụ giúp cho kịp lễ.

Ngoài ra, về việc thừa-tác-viên giáo-dân có được phép phụ giúp xức tro lên trán người khác vốn dĩ khi xưa chỉ do linh mục chủ tế hoặc phó tế thực hiện mà thôi. Còn, việc mang tro đến nhà kẻ liệt hoặc nhà giáo dân nào không đến dự nghi thức xức tro trong/ngoài thánh lễ ở nhà thờ được.

Giả như những ngày có đông dân chúng dự lễ, nhà thờ cần thêm thừa-tác-viên Thánh Thể phụ giúp trao Mình Chúa, thì không có lý gì các vị này lại không được trao phó cho việc phụ giúp xức tro tựa như thế.

Còn câu hỏi, từ khi nào Giáo hội khởi sự Mùa Chay có xức tro lên trán, thì câu trả lời là: chỉ mỗi Sách Bí Tích Grêgôriên vào thời đầu là nói đến Thứ Tư Lễ Tro vào cuối thế kỷ thứ 8, nên ta kết-luận là tập tục này khởi từ ngày đó.

Một trong các bài viết nói về tập-tục cử hành Lễ Tro ngày Thứ Tư xuất hiện sớm nhất là trong các bài giảng do Đan-Viện-Phụ Aelfric thành Eynsham (955-1020) thuộc hệ-phái Anglo-Saxon có viết trong sách “Cuộc Sống của Các Thánh”, mới có câu sau đây:

Ta đọc trong các Sách Luật Cổ Xưa và cả thời nay nữa đều có nói rằng những ai hối cải mọi lỗi tội mình từng phạm đều được phép xức tro lên trán và mặc ‘áo nhặm” mà hối tội.. Nay, chúng ta hãy làm một chú gì đó lúc bắt đầu Mùa Chay bằng việc xức tro tàn lên trán có nghĩa rằng: ta biết ăn năn hối cải trong mùa Chay kiêng này.”

Từ cuối thế kỷ thứ 10 trở về đây, tục lệ xức tro lên trán giáo dân vào Mùa Chay đã trở thành chuyện quen thuộc đối với bà con sống ở các nước thuộc Miền Tây Châu Âu, dù không thấy có tại La Mã. Năm 1091, hồi xảy ra Thượng Hội Đồng Bênêventô, Đức Giáo Hoàng Urbanô II đã chỉ thị cho Giáo Hội thực hiện thói quen này trong toàn Giáo Hội La Mã.

Không lâu sau đó, các sách Phụng vụ Giáo hội đã sử-dụng tên gọi “Feria Quarta Cinerum”: “Thứ Tư Xức Tro” hoặc Lễ Tro ngày Thứ Tư được nói đến.

Tục-lệ bắt đầu Mùa Chay bằng việc xức tro lên trán, khởi từ việc giáo dân từng mắc tội trọng đều phải tỏ ra ăn năn sám-hối để được hóa giải mọi lỗi tội vào ngày Lễ Phục Sinh bằng việc xức tro và khoác ‘Áo Nhặm’ đầu Mùa Chay.

Hình thức sám-hối mọi lỗi tội đã chấm dứt vào cuối thế kỷ thứ 10, nhưng tàn dư của việc này vẫn tồn đọng qua việc xức tro lên trán ngày Thứ Tư Lễ Tro.

Cón vệc các Giáo phái khác như Giáo hội Chính Thống Đông Phương thường không làm thế, bởi tục lệ này không là thành-phần truyền thống giữ Đạo của hệ phái này. Và, ta chỉ thấy tập-tục này tồn lại với Giáo hội Trời Tây mà thôi.

Dù sao đi nữa, kể từ năm 2012 khi Giáo hội Tây Phương ở Hoa Kỳ bắt đầu thực-hiện Nghi thức Chính Thống-giáo Antiôkia, một số giáo-xứ Chính thống-giáo Phương Tây cũng bắt đầu cử hành các ngày Thứ Tư Lễ Tro ở nhiều nơi.

Còn việc Giáo phái Thệ Phản thi hành tập-tục xức tro lên trán người đi Đạo cũng đa dạng, tức: chỉ một số nơi làm chuyện này, thôi. Những năm tháng gần đây, việc cử hành các ngày Thứ Tư Lễ Tro trong cộng đoàn Anh-giáo và Thệ Phản đã bắt đầu gia tăng, coi đó như động-tác hiệp-nhất với phía Công giáo. Và, Giáo hội khác nhau trên thế-giới coi đây như động-tác hòa-đồng tôn-giáo sau Công Đồng Vatican II.

Rõ ràng là, Giáo phái Anh Giáo, Lutêrô, Mêthôđist, Êpiscôpan, Anabáptít và các Cộng đoàn Tân Cải đã và đang áp-dụng những việc như thế.” ( X. Lm John Flader, Some questions and answers about Lent and Ash Wednesday, The Catholic Weekly 08/3/2015, tr. 52)                               
  
            Xem thế thì, việc đi Đạo và giữ Đạo vào những ngày kiêng khem, âm thầm nguyện cầu mà thôi, nhưng còn là và vẫn là hành-động cởi bỏ nếp sống cũ xưa, tha-hóa, nát tan như Lời Vàng Đấng Thánh Hiền từng bảo nơi Kinh Sách, rằng: 

“Anh em phải cởi bỏ con người cũ
với nếp sống xưa,
là con người phải hư nát
vì bị những ham muốn lừa dối,
Anh em hãy để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em,
và mặc lấy con người mới,
là con người đã được sáng tạo
theo hình ảnh Thiên Chúa
để thật sự
sống công chính
và thánh thiện.”
(Thư Êphêsô 4: 22-24)

Lời bảo ban của Đấng thánh hiền còn vang vọng mãi chốn dân gian thực dụng tuy không mô phạm như lời đấng bậc hoặc ai đó, nhưng chỉ diễn tả nhè nhẹ qua truyện kể dưới đây thôi:
  
“Con đường đất dẫn vào khu xóm nghèo dài tít tắp. Hai bên đường, những thân cây còi cọc đứng nép mình bên đám cỏ dại bám đầy đất đỏ. Đám con nít đang chơi đồ hàng trước sân dõi những đôi mắt nửa tò mò nửa cảnh giác về phía người lạ.

Tôi những muốn vẫy tay chào tụi nhỏ, nhưng cái khao khát được tìm lại thứ quý giá của cuộc đời mình đã không thể ngăn những bước chân vội vã của tôi bước nhanh về phía cuối xóm. 

Căn nhà xiêu vẹo nằm đơn độc giữa bãi đất trống cuối cùng cũng hiện ra . Dẫu biết căn nhà đã bị bỏ trống nhiều năm nhưng sự yên ắng và điêu tàn của cảnh vật vẫn khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Tôi đặt nhẹ chân lên thềm nhà, hít một hơi thật sâu, cảm nhận luồng không khí quen thuộc đang len lỏi vào trong từng tế bào phổi.

Tôi tra chìa khóa vào ổ. Lần cuối cùng tôi còn ở trong căn nhà này tới giờ, mọi thứ hầu như đều không hề thay đổi. Tôi sờ từng kỉ vật trong ngôi nhà đã đóng bụi theo tháng năm mà nghe bồi hồi, bao kí ức của tuổi thơ chợt tràn về quanh tôi, thực đến nỗi như mới xảy ra ngày hôm qua mà thôi…

Ngày đó kinh tế rất khó khăn. Ba má tôi thì đi làm cả ngày, chỉ có mình tôi ở lại trông nhà. Lúc ấy tôi còn nhỏ lắm. Thấy tôi suốt ngày lang thang ngoài ngõ chơi, hết í ới hái hoa rồi lại thơ thẩn bắt bướm, ngoại đã chủ động đón tôi về để tiện bề săn sóc, chăm nom. Thế là tôi về ở với ngoại.

Hồi ấy, cứ mỗi lần ngoại đi chợ về là tôi lại chạy ào ra sân, reo hò, đòi ngoại mở cái giỏ đi chợ cũ kĩ ra xem hôm nay ngoại mua những món gì. Lần nào ngoại cũng mua cho tôi cái gì đó, khi thì một nửa cái bánh đa, có khi lại là một củ khoai sứt đầu mẻ trán. Tuy những món quà quê ấy chỉ là những thứ quê mùa dân dã , nhưng tôi vẫn không ngăn được cảm giác tò mò mỗi khi ngoại xách giỏ đi chợ, háo hức lục giỏ ngoại và nhảy cẫng lên vui sướng khi được chạm tay vào những cái kẹo, cái bánh.

Tuổi thơ bên ngoại cũng là những tháng ngày cùng đám bạn chơi thả diều trên những cánh đồng chỉ còn trơ rạ, đi theo đám con nít lớn hơn xem tụi nó bắt cá hay leo hết từ cành cây này sang cành cây khác chỉ để tỏ ra ai là đứa “gan dạ” nhất…

Nhớ nhất là những đêm trăng sáng, ngoại thường ngồi trên cái phản dài trước sân, miệng bỏm bẻm nhai trầu và kể chuyện. Đám trẻ con thì ngồi túm tụm xung quanh, tranh nhau ngồi gần ngoại để được nghe kể chuyện cho rõ hơn.

Có những câu chuyện ngoại đã kể đi kể lại tới mấy lần nhưng lần nào đám nhóc tì chúng tôi cũng háo hức, miệng đứa nào cũng há hốc, chăm chú lắng nghe. Còn những hôm không kể chuyện cổ tích thì tôi thường nhổ tóc sâu và nghe ngoại kể chuyện đời. Lúc đó tôi còn ham chơi lắm nên những lời ngoại nói tôi chẳng để ý mấy. Tuy bình thường ngoại cưng chiều và hay mua quà bánh nhưng những khi tôi làm điều sai trái, ngoại đều nghiêm khác dạy dỗ.

Lớn lên một chút, tôi trở thành con nhóc cực kì quậy phá và ngang bướng. Có lần tôi rủ đám bạn cùng xóm trốn người lớn bơi sang phía bên kia sông hái ổi dại ăn, xui xẻo thế nào một đứa trong đám lại bị chuột rút, suýt chết đuối. Ngoại nghe tin, chạy ào ra đê, thấy cháu ngoại đang đứng run lẩy bẩy, mặt cắt không còn một giọt máu liền kêu về. Ngoại giận lắm, bắt tôi nằm sấp trên phản, lấy roi mây đánh cho tôi một trận. Tôi vừa đau vừa sợ, gào khóc xin ngoại tha thứ. Ngoại ném cây roi xuống sàn rồi ôm tôi vào lòng, khóc “sao dại quá vậy con ơi…”

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, mọi vật đều bị sự chi phối của thời gian làm cho thay đổi. Ngoại đã già hơn, lưng đã còng và ngày càng yếu, thỉnh thoảng tôi lại thấy ngoại ho. Giữa lúc người lớn bắt đầu họp nhau lại nói chuyện gì đó đằng sau nhà (mà tôi đoán là nói về ngoại) thì tôi vẫn là con nhóc hồn nhiên chạy chân đất quanh con đê đầu làng, miệng tíu ta tíu tít. Cho đến một hôm…

Ngày ngoại mất. Lúc đó tôi vẫn chưa đủ lớn để ý thức được rằng ngoại đã rời xa tôi mãi mãi. Thấy nhà có đông người ra vào, nhưng mặt thì cứ buồn thỉu buồn thiu vì ngoại không biết đã trốn đi đâu mất tiêu. Hỏi má thì má chỉ nhìn “cái hộp” cao cao bằng gỗ kê ở giữa nhà mà người ta mới chở tới hồi hôm, rồi lặng lẽ khóc.

Tôi cũng sẽ nhớ mãi cái ngày mà người ta mang ngoại tôi đi mất. Hôm ấy trời đổ cơn mưa, không lớn nhưng cứ rả rích, âm ỉ suốt cả ngày trời. Tôilúc ấy chỉ khoảng tám, chín tuổi, đầu đội tang, áo xô gai lấm lem bùn, chân trần chạy trên nền đất nhẽo nhoét. Vừa dõi đôi mắt tuyệt vọng về phía những người đưa ma phía trước, tôi vừa gáo khóc “trả ngoại lại cho connnn… “. Ở đâu đó, mẹ tôi cũng đang dấu mặt vào đôi bàn tay gầy guộc, khóc nức nở…

Chớp mắt một cái mà đã mười mấy năm trôi qua. Bây giờ tôi đã không còn là đứa con nít hay khóc nhè và giận hờn vu vơ nữa. Nhìn lên bàn thờ hương bay nghi ngút, hình ảnh của ngoại năm xưa lại tràn về, khuôn mặt hiền như một bà tiên, những nếp nhăn như dài ra đằng sau mỗi nụ cười… Chợt thấy sống mũi mình cay cay, thấy nhớ ngoại da diết, muốn được lao vào lòng ngoại như đứa con nít nũng nịu của ngày hôm qua và cất tiếng gọi “Ngoại ơi…” (Truyện kể được bầu bạn sẻ chia, trên vi tính)

Những gợi nhớ được “bầu bạn sẻ chia trên vi tính” còn nhắc nhở bà con ở đây đó hãy sống hiên ngang, vui vẻ như lời thơ từng vang vọng:

Tôi như người ru mộng”
sống cuộc đời bềnh bồng
ngó quanh đời quạnh hiu
Buồn rơi theo năm tháng
chết trên lưng tháng ngày.

Tôi như loài cỏ dại
tôi như loài cỏ dại
suốt một đời chênh vênh,
suốt một đời buồn tênh.

Em có thương
thì xin chút hiền ngoan thật lòng
vì cõi đời này là những đam mê là những chia ly
là những đớn đau lẻ loi
Nên vẫn hoài còng đi se cát
Biển nhớ mênh mông
tình vẫn hư không ... đời đời.

Tôi như giòng sông cạn
cuốn quanh đời mệt nhoài
cuốn theo giòng nghiệt ngã
Buồn rơi theo năm tháng
úa trên lưng tháng ngày.

Tôi mang hồn cỏ dại
ngu ngơ tự hỏi lòng
bỗng một ngày thiên thu
bỗng một đời phù du.”
(Từ Công Phụng – bđd)


Thế đó, là giòng chảy đầy những phiếm. Phiếm rất loạn và cũng lai rai tháng ngày mai khôn nguôi.


Trần Ngọc Mười Hai
Và những giòng phiếm loạn
thảnh thơi,
khơi khơi,
không ngơi nghỉ.


No comments: