Saturday, 19 March 2011

“Ơn Em, thơ dại từ trời”

Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi.

(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – Giữ Đời Cho Nhau)

(Rm 8: 20-22/Ga 9: 2)

Em”, mà cũng thơ cũng dại nữa sao? Nói cho cùng, thân “Em” dù có rơi rớt từ trời cao; hoặc, theo ai xuống biển, để “vớt đời” nạn nhân sóng thần, động đất đi nữa, thì bạn Đạo bọn tôi vẫn xin múa hát chỉ đôi lời:

“Ơn Em, dáng mỏng mưa vời,

Theo ta lên núi, về đồi yêu thương.

Tạ ơn em. Tạ ơn em.”

(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

Theo ta lên núi”, “về đồi yêu thương”, cũng chỉ để ta thông cảm, sẻ san và xót thương thân phận của hàng chục ngàn người nạn nhân của tai ương ở Nhật, gần đây nhất. Xót thương, để rồi sẽ cảm kích biết ơn sự sống quý giá ta nhận lĩnh từ Thiên Chúa. Tạ ơn Em. Tạ ơn anh. Tạ ơn các người anh/người chị có Chúa hiện diện ở trong lòng. Tạ ơn Hội thánh nhưng không oán trách về những sự việc xảy đến với ta, dù sẽ ra tồi tệ thế nào đi nữa, vẫn là ân huệ trời ban. Không oán thán, là bởi em và tôi dù có cho đó là ân huệ hay không, thì sự việc vẫn xảy đến theo cung cách nào đó, rất khó tránh. Khó, như đấng bậc vị vọng ở Sydney đã nhận định:

“Thêm một lần nữa, chúng ta lại đối đầu với những bí ẩn của khổ đau, rất người. Tin Chúa hay không, hẳn ai cũng bị thôi thúc hãy dừng lại đôi phút để mà suy tư. Suy rằng: ta chẳng thể nào trả lời được câu hỏi: tại sao có khổ đau? Tai ương/sầu buồn sao vẫn có ở trên đời? Sao chết chóc hoặc khổ đau, vẫn dính liền với con người?

Christchurch, là tên gọi rất đẹp của thành phố mang ý nghĩa rất Hội thánh. Tuy nhiên, tên đẹp hoặc ý nghĩa hay cách mấy cũng không thể bảo vệ cho thành phố ấy thoát khỏi cơn điạ chấn những hai lần, trong sáu tháng.

Thời Chúa sống, tháp Siloa ở phía Nam bức tường thành Giêrusalem đẹp và hiển thánh là thế, nhưng vẫn sụp vẫn đổ, giết chết những 18 thường dân vô tội. Chính Chúa từng quả quyết với những người theo chân nghe Ngài giảng giải, rằng: nạn nhân tai ương, họ nào có tội tình gì để cứ phải lãnh chịu hậu quả thảm khốc đến như vậy. Họ đâu nào xấu xa tội lỗi như bao kẻ khác, mà sao vẫn gặp rủi ro, sầu khổ đến độ chết bẹp dí dưới lớp gạch vụn từ tháp canh tường thành, nay đổ sụp!.

Người thời nay, thật cắc cớ nếu cứ bảo: giữa tội lỗi và khổ đau luôn có nối kết, rất chặt. Dù, có một số trường hợp, các hành vi tệ nạn như: rượu chè, chích choác, sống thác loạn, lạm dụng, vẫn bị coi như đã nối kết với sự xấu, thật khó tránh. Dù có thế, thường dân vô tội hoặc cả những người có niềm tin vững chắc, vẫn không tránh được khổ đau, âu sầu xảy đến với họ, rất thường nhật.

Kinh thánh chẳng khi nào bàn luận về việc Chúa là Đấng tốt lành rất mực, nhưng Ngài lại không bác bỏ chuyện khổ đau/sự dữ vẫn xảy đến rất thông thường trong cuộc sống. Ngài gọi đó, là dịp để ta biết mà yêu thương giùm giúp người bị nạn. Đó còn là dịp, để ta cắt nghĩa cho mọi người hiểu rằng: theo cách thức rất bí nhiệm và bằng niềm tin yêu rất mực, thì khổ đau/sầu buồn vẫn là cơ hội để ta có được ơn lành cứu độ Chúa tặng ban. Chính vì thế, mà thập giá Đức Kitô là biểu tượng được nhiều người biết đến và trân trọng hơn.

Người vô thần vẫn có thái độ khác với người theo Đạo cách nghiêm chỉnh. Với người vô thần, thiên tai/sầu khổ khi nào cũng là cớ là dịp để họ chối bỏ việc Chúa hiện hữu, có thật. Nhưng kỳ thực, ai cố tình kiếm tìm sự an nhàn tự tại, vẫn có cách và có lý để tránh né những người đang gặp khó khăn, đau khổ. Làm như thế, những người này cũng đâu củng cố gì thêm được niềm xác tín cũng như tình bác ái mình có. Ai đang sống đời chật vật ở đây, nơi xứ này hoặc trước giờ vẫn quen sống nghèo khổ/khốn khó, thường ít tỏ vẻ ngạc nhiên ưu tư trước những tai ương của trời đất hoặc tai hoạ do con người đem đến. Có gặp tai ương sầu khổ mấy đi nữa, họ vẫn nghĩ đến người khác. Vẫn nhanh chóng tìm ra phương cách để giúp đỡ người bị nạn hơn là ngồi đó mà lý thuyết suông. Thế nên, đây là lúc ta cần đoàn kết giúp đỡ nhau. Và, cảm tạ Chúa. Cảm tạ, vì lâu nay vẫn có nhiều người còn làm chuyện giùm giúp đỡ đần nhau, đến bây giờ.” (x. ĐHY George Pell, New Zealand quake: time for all to unite and help, The Catholic Weekly 06.03.2011, t. 4)

Nhận định của đấng bậc trích dẫn ở trên, lâu nay là như thế. Vẫn chính xác. Mạch lạc. Và, nhuần nhuyễn. Thời Giáo hội tiên khởi, nhiều đấng bậc không trả lời được lý do tại sao có thiên tai/sầu khổ bằng lời lẽ thông thường cho dễ hiểu, nhưng vẫn nhất tâm như các thánh lâu nay quả quyết:

“Tôi quyết rằng

những đau khổ đời này không đáng là gì

so với vinh quang hòng tỏ hiện trên ta.”

(Rm 8: 18)

Với lời lẽ chính thức thoả đáng, Giáo hội lại đã đưa ra khẳng định rất chuẩn mực như sau:

“Bằng sự khôn ngoan tử tế rất vô cùng, Thiên Chúa đã tác tạo thế giới theo cung cách một hành trình đi đến kết cục rất toàn hảo. Theo kế hoạch của Chúa, hành trình này trở thành diễn tiến lịch sử bao gồm các sự kiện liên can đến các hữu thể được sinh ra và tiếp tục hiện hữu. Trong khi đó, một số hữu thể khác lại cứ biến thái, mất dần. Diễn tiến lịch sử, là sự diễn lộ ra bên ngoài những yêu tố xảy đến với con người, song song với sự toàn thiện vẫn là bất toàn. Lịch sử diễn tiến cả hai mặt. Vừa là sức mạnh hủy diệt, vừa là uy lực dựng xây, theo cung cách tự nhiên trong trời đất.” (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo #310)

Thêm vào đó, Hội thánh còn quả quyết:

“Ta tin chắc Thiên Chúa là Chúa tể vũ trụ lịch sử. Đường lối Ngài định đoạt, theo lẽ thường, loài người khó lòng mà nhận biết. Chỉ vào lúc cuộc đời con người đạt đến giai đoạn kết thúc, khi mọi điều họ nhận thức nay chấm dứt, phải đối diện với Ngài, thì khi ấy, con người mới hiểu mới biết cách tường tận, đường lối Chúa dẫn đưa thụ tạo của Ngài trải qua trạng thái khổ đau/âu sầu/tội lỗi, để rồi thụ tạo ấy mới đạt chốn ngơi nghỉ ngày Sabát, khi Chúa kết thúc công cuộc tạo dựng trời đất, rất vũ trụ.” (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo #314)

Mỗi bản thể là thành phần vũ trụ được tạo dựng, dù có là thần thánh hay người trần xác thịt cũng đều trải qua tiến trình ấy. Vị nào đầy kinh nghiệm từng trải, sẽ có tiếng nói khiến mọi người đều lắng nghe. Là, thi nhân ở đời, người nghệ sĩ cũng lắng nghe, nhưng nghe rồi họ lại hát:

“Ơn em ngực ngải môi trầm

Cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan.

Ơn em hơi thoảng chỗ nằm

Giấu quanh giấu quẩn nỗi buồn một nơi.

Tạ ơn em. Tạ ơn em.

(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

Có là “Ngực ngải môi trầm”, hoặc “cỏ mặn trăm lần lá ngoan, là “hơi thoảng”, vẫn cứ buồn khiến em phải giấu quanh giấu quẩn, ở nơi nào đó có trong đầu, hay trong tim, vẫn là những kinh nghiệm “đau cồn ở cữ”, mà nhiều đấng bậc từng trải, nay giải thích:

“Theo nghĩa rộng, “khổ đau/âu sầu” có nghĩa là mất đi những gì ta yêu thích. Cả đến những gì mình yêu mình thích theo nghĩa như: ngồi vụt dậy khỏi chiếc giường mình đang ngủ cũng là khổ đau. Mất đi sự yên hàn của giấc ngủ đẹp vừa qua đêm, để rồi phải giáp mặt với những sự lạ trong ngày, cũng lại là đau khổ. Khổ đau/âu sầu là những gì mình nhận lĩnh, từ đâu đó. Thế nhưng, hỏi rằng có ai, dù nhận thức thấu đáo cách mấy, dám bảo rằng: mất mát như thế mới xứng hợp với mình, không?..

Tóm lại, theo phần đông các câu truyện nhiều người kể, thì khổ đau/âu sầu là con lộ để ta tăng trưởng như tư cách của bản thể người. Mục đích, để ta thắng lướt mọi thử thách vẫn đề ra…

Khổ đau/âu sầu, chết chóc nếu ta chấp nhận nó như một thử thách, nó sẽ cứu ta ra khỏi cảm giác không đúng lắm về động thái vô dụng, vô tích sự, đáng đổ bỏ của bản thể con người. Theo nghĩa đó, thì kinh nghiệm khổ đau vẫn chuyện cần thiết. Ai dám hân hoan đắc chí cho rằng sức khoẻ mình vẫn tốt, nếu không là người từng mặc bệnh trầm kha? Ai là người biết trân trọng sự sống nếu không phải những người có kinh nghiệm thoát chết trong đường tơ kẽ tóc? Ai dám bảo mình là người rất cảm kích/biết ơn nếu không nhận ra rằng hạnh phúc chẳng là gì cả, chỉ là chuyện chóng qua, rất nhất thời?

Chính vì vậy, hãy xử như ông Gióp từng reo lên trong Cựu Ước, rằng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?" (x.William j. O’Malley, Forgiving God, America, the National Catholic Weekly 22/9/2008)

Giống như thi nhân ngoài đời, đâu có là người cảm nhận hạnh phúc, suốt nhiều năm. Nhưng thi nhân ấy, nghệ sĩ nọ vẫn chấp nhận âu sầu, buồn da diết. Buồn, đến độ tuôn ra từng âm tiết lạnh lùng, nhưng lại cảm hoá được nhiều người. Để rồi người người cũng ca cũng hát lời thơ hay, từ những ngày:

”Ơn em tình những mù lòa

Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi.

Ơn em hồn sớm ngậm ngùi

Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.

Tạ ơn em. Tạ ơn em.”

(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

Con sâu nhỏ, bò qua giấc mùi”, “hồn sớm ngậm ngùi”, vẫn là tình tự “giữ lại đời”, “cho nhau”, cả kiếp sau. Kiếp sau hay kiếp trước, là duyên là kiếp của tình người từng biết đến khổ đau, âu sầu, nhiều chết chóc. Điều đó, có thể ai cũng kinh nghiệm từng trải. Nhưng, vẫn muốn tìm nguyên do của nó, ngõ hầu đổ tội hoặc giận dỗi, cách vô lối. Tuy nhiên, có những vị không giận dữ vì khổ đâu, âu sầu, bức bách. Các vị ấy, vẫn cảm kích biết ơn và kiếm tìm người đồng cảnh ngộ để san sẻ. Trong số đó, phải kể đến đấng bậc vị vọng ở Melbourne với những tâm tình rất trung thực như sau:

“Cơn địa chấn và sóng thần mới đây ở Nhật, đã dấy lên nhiều tâm tình cảm thông, thương xót. Vì xót thương, nên nhiều vị lại đã trở về với câu hỏi, có từ ngàn xưa: sao ta cứ đau cứ khổ đến thế?” Đây là câu hỏi từng làm điên đầu nhiều vị thánh đã từ lâu. Lâu cả ngàn năm. Lâu, nhiều thiên niên kỷ. Đến độ, có người còn nghĩ: Thượng Đế là Đấng Nhân lành và Hiền Từ vô cùng, đồng ý thế, nhưng sao Ngài cứ để đau khổ/sự dữ xảy đến với con người?”

Trước nhất, ta phải công nhận một điều, rằng: chẳng ai tài giỏi để có thể trả lời được câu hỏi ấy, chí ít là khi chính mình hoặc những người đang giáp mặt với khổ đau/âu sầu. Nếu có ai cho rằng mình có thể đưa ra câu trả lời, thật đích xác, cũng nên gọi họ là người nói láo, hoặc khùng điên. Hoặc, chỉ là người chưa bao giờ biết đến khổ đau là gì hết.

Thứ đến, phải công nhận rằng: tin vào Chúa có nghĩa là mình tin rằng Ngài có cung cách hành xử thật bí hiểm. Còn nhớ, có lần tác giả cuốn sách mang tựa đề “Nói về Chúa”, là thày tư tế Daniel Polish từng bảo: “Tôi không tin vào Thiên Chúa mà ý định hoặc động lực của Ngài rõ như ban ngày, đối với tôi. Với tư cách là kẻ có lòng tin, tôi vẫn thấy mình nên nghi ngờ những người đưa ra nhận xét rõ ràng đến như thế.”

Thành thật mà nói, bản thân tôi nay không còn dựa vào các lý lẽ rút từ Sách thánh để giải thích lý do của khổ đau, như: Đau khổ là hình phạt Chúa gửi. Là, cung cách để ta giữ mình được thanh sạch. Là phương cách giúp ta tham gia cuộc sống của Đức Giêsu… Là, thành phần cuộc sống trong thế giới bất toàn, của con người vv…và vv...

Trong Tin Mừng thánh Gioan, chính Đức Giêsu từng phản bác ý nghĩ cho rằng mù loà là kết quả của tội lỗi, như sau:

“Các môn đệ hỏi Người:

"Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù,

anh ta hay cha mẹ anh ta?"

Đức Giê-su trả lời:

"Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội.

Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa

được tỏ hiện nơi anh.”

(Ga 9: 2-4)

Với tôi, điều giúp mình cảm thông với nỗi khổ mình chịu là tin rằng Chúa luôn đồng hành với mình trong đau khổ. Vẫn có nhiều điều còn “bí hiểm” khiến tôi không hiểu được như các vấn đề đặt ra trong sách Gióp ở Cựu Ước, nhưng tự thân, tôi vẫn đặt mình trong tương quan với Chúa. Vẫn cố gắng, dù đôi lúc cũng thất bại, cố gắng ủy lạo bệnh nhân, uỷ lạo chính minh đang đau đớn vì bệnh tật để nói được rằng: chính Đức Giêsu cũng từng giáp mặt với khổ đau, trong đời Ngài. Ngài sẽ cùng ta nguyện cầu để cùng đồng hành với ta qua cơn đau.

Một điều rất rõ, là khi đã chấp nhận để Chúa đồng hành với ta, qua cơn đau như thế, tôi nhận ra được hy vọng đang loé sáng trong tôi, khiến tôi có thể chấp nhận thực tại của đau khổ. Và đó là con đường để tôi gặp gỡ Chúa. Đây không là lý do cũng chẳng là giải thích của khổ đau, nhưng đôi lúc vẫn có thể là thành phần trong kinh nghiệm chịu đau chịu khổ, tôi từng trải.

So với những đau khổ mà người ở Nhật đang gánh chịu, khổ đau tôi từng chịu chỉ là một phần rất nhỏ so với kinh nghiệm đau thương của họ. Hơn nữa, đau khổ của tôi không giống khổ đau của anh hoặc chị đang cam chịu. Tôi chỉ muốn nói một điều, là cũng như mọi kẻ tin khác cần tìm ra con đường để đến với Chúa, thì thị kiến về khổ đau bao giơ cũng là kinh nghiệm riêng tư, mật thiết nhất.” (x.Lm James Martin sj, Why Do We Suffer?, The Jesuit Guide to (Almost) Everything, 13/3/2011)

Bàn về kinh nghiệm khổ đau với bệnh tật, là người ai mà chẳng có một lần cảm nhận như thế. Nhưng kinh nghiệm của người nhà Đạo, tức các vị có quan hệ gần gũi với Chúa nhất, vẫn đa dạng. Mỗi người mỗi cách. Thường thấy nhất, là cách thức của một số tu sĩ có phản ứng nhanh nhẹn, dễ nói như:

“Các kẻ tin vào Chúa, đều tỏ ra nghi ngờ về các câu trả lời quá dễ, đối với vấn đề khổ đau. Mẹ tôi có lần kể cho tôi nghe về vị nữ tu trọng tuổi nọ sống trong làng hưu dưỡng cùng với bà ngoại của tôi nay đã 90. Một hôm bề trên của vị nữ tu này đến làng thăm kẻ liệt, thì được vị nữ tu trọng tuổi than vãn về cơn đau lưng kéo dài tưởng như không dứt. Vị bề trên bèn khuyên: “Mỗi khi đau, chị hãy nghĩ về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên thập tự.” Nữ tu nọ bèn đáp trả: “Dạ thưa Bề trên, Chúa chỉ ở trên thập giá có ba tiếng thôi, còn con đây suốt ngày này qua tháng nọ, thế mới chết…”

Về câu trả lời quá dễ ấy, Lm Richard Leonard dòng Tên có viết về kinh nghiệm thương đau ngài phải chịu cuốn sách mang đầu đề “Chúa ở nơi chết tiệt nào thế?” Trong sách, tác giả kể về các khổ đau mà gia đình ngài phải chịu. Bố của ngài chết vì nhồi máu cơ tim năm 36 tuổi, để lại người mẹ đơn chiếc chăm lo cho 3 người con.

Tảng sáng ngày sinh nhật thứ 25 của linh mục, Bề trên của ngài gọi dậy để nghe điện thoại mẹ gọi. Mẹ cho biết chị ruột của ngài là Tracey, một nữ y tá làm việc cho cộng đồng người Thổ dân, đã bị tai nạn xe cộ, rất khốc liệt. Kịp đến khi thăm được chị bằng chuyến bay tốc hành, thì Tracey đã toàn thân bất toại, đành chịu liệt. Trong cơn đau đến nổi quạu, mẹ ruột của linh mục kêu lên “Chúa đang ở cái xó chết tiệt nào vậy?” Không như câu trả lời quá dễ dàng của vị nữ tu kia, linh mục Richard Leonard sj chỉ biết mếu máo trả lời: “Mẹ à, con nghĩ Chúa của mình cũng đang bấn lên, không kém. Như Thiên Chúa của Isaya từng làu bàu không ít, như Đức Giêsu từng khóc rống bên cạnh mộ phần của người bạn thân, con nghĩ Thiên Chúa không đứng bên ngoài mọi khổ đau của gia đình mình, đâu mẹ. Nhưng, Ngài là người bạn đồng hành vẫn ấp ủ ta trong cánh tay Ngài, để sẻ san nỗi đau buồn thống khổ của mẹ con mình, trong lúc này.”

Ngoài ý tưởng về sự khổ đau vốn dĩ giúp ta mở lòng mình để có kinh nghiệm thực tế về Chúa, tôi nghĩ đây là nhận thức thần học khá sâu sắc có thể giúp ích được nhiều người đang trong cơn đau, đó là hình ảnh về Thiên Chúa từng chịu đau chịu khổ, Đấng luôn sẻ san nỗi sầu buồn, Thiên Chúa hiểu rõ và cảm thông với con người hơn ai hết.

Trả lời cho câu hỏi về nguyên nhân gây đau khổ, có câu trả lời thích hợp với người hỏi, có câu làm cho người đang đau khổ thấy lạnh lùng hoặc xúc phạm hơn. Nhưng tựu trung, mỗi người khi đau đớn, phải biết tìm ra phương án nào khả dĩ giúp mình giáp mặt đương đầu với cơn đau hoặc mất mát luôn có Chúa. Bởi, đau khổ vẫn là một “bí nhiệm” đối với nhiều tín hữu, nhưng tuyệt nhiên không là thứ gì ta có thể bỏ sót hoặc lãng quên, nhưng là thứ gì ta cần chú tâm đến bằng cả con tim lẫn thần tính.” (x. Lm James Martin sj, bđd)

Nói gì thì nói, diễn tả nét cùng cực rất đích thực của khổ đau như hai linh mục James Martin sj và Richard Leonard sj không là những gì bất kính tỏ ra với Chúa. Đúng hơn, nên hiểu đây là phản ứng rất bình thường của con người khi rơi vào cảnh khổ đau giống như trên. Tất cả chỉ để nói lên rằng: Chúa đâu sao không đến giúp, con chịu hết nổi rồi, Chúa ơi!

Bằng vào kinh nghiệm bản thân lúc nào cũng thấy đau khổ/khổ đau ở quanh quất, hẳn rằng ai cũng đồng ý mà bảo: khổ đau là sự thật rất thực, luôn đồng hành canh cánh với sinh vật sống. Chí ít, là con người. Làm người, không ai thoát khỏi khổ đau, sầu buồn, mất mát. Đó, là qui luật của sự sống.

Là sinh vật sống, hữu thể nào cũng phải chấp nhận qui luật ấy. Thế nên, thay vì bác bỏ đau khổ, Đức Giêsu đã vui lòng chấp nhận khổ đau, sầu buồn cho đến chết. Ngài chấp nhận, vì biết rằng Ngài luôn có Cha ở cạnh để cảm thông và san sẻ.

Nói cho cùng, cũng nên hiểu khổ đau, sầu buồn, mất mát là quà tặng Chúa đính kèm với sự sống, ngay từ đầu. Quà tặng, đâu phải lúc nào cũng trơn tru, tốt đẹp, bền vững mãi. Tốt hay xấu, khổ đau hay hạnh phúc vẫn là quà. Còn lại, là thái độ của mỗi người khi gặp phải qui luật đau thương ấy mà thôi.

Để minh hoạ cho triết lý sống này, cũng nên về với truyện kể nhè nhẹ, dễ nghe sau đây:

“Hôm ấy, một ngày không đẹp trời cho lắm, chú bé tinh tinh (đười ươi) cắc cớ, hỏi mẹ:

-Mẹ ơi, có thể nào mẹ dạy cho con biết: mẹ con mình trông to lớn, mạnh khoẻ hơn bất cứ loài khỉ/vượn nào khác, mà sao tướng tá vẫn dị hợm và không tránh khỏi các cơn đau như mây chiều lạnh giá, thế hả?

Tinh tinh mẹ hiền nhìn con một hồi, rồi cười bảo:

-Tốt hơn, con hãy cảm tạ Thượng đế đã cho mình được như thế. Trông vậy, mà mẹ con mình vẫn còn hơn chán vạn loài thú khác, đó nghe con. Kìa con xem, to lớn như loài voi, loài người thế mà có loài nào thoát được hình hài quái dị, lại bị đau bị khổ đến chết được cơ chứ. Bằng lòng đi con. Mình có muốn hơn loài khác cũng chẳng được đâu, con à…”

Đúng thế. Bằng lòng đi bạn, bằng lòng đi tôi. Ta cứ vui vẻ bằng lòng, rồi sẽ hát lời ca trên rằng:

“Ơn em, thơ dại từ trời

Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi.

Ơn em, dáng mỏng mưa vời,

Theo ta lên núi, về đồi yêu thương.

Tạ ơn em. Tạ ơn em.”

(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

Tắt một lời, tất cả đều là Ơn “Em” từ Trời, cũng rất thơ nhưng không dại. Vì thế nên, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ tạ ơn đời. Tạ ơn Người. Mãi khôn nguôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ tạ ơn Em.

Tạ ơn hết mọi người

Suốt một đời.

No comments: