Chuyện
Phiếm đọc trong tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017
“Ngày ấy em như hoa sen,”
“mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên
Ngày ấy em như sương trong,
nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.”
(Anh
Bằng/Trần Ngọc Sơn – Hạnh Phúc Lang Thang)
(Công vụ
1: 6-8)
Giả như ta chuyển ý bài hát ở
trên sang thành tư-tưởng của nhà Đạo, thì sẽ thấy câu tiếp diễn tả rất như sau:
“Ngày ấy
em như cung tơ,
cho đời
thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,
ước cho
đời ước mơ dài.
Nhưng năm tháng vô tình, mà lòng người cũng vô tình,
rồi màu
úa thay màu xanh
Người yêu xa bến mộng, đò xưa đã sang sông,
giòng đời
trôi mênh mông.
Dáng xưa nay xa rồi, đường khuya mưa rơi rơi.
Phố xưa quên một người, bàn chân gieo đơn côi.
Gió mang theo cơn lạnh, về rót lệ trên môi.
Ngày ấy yêu em say mê, tôi nào nghĩ gì đến câu từ ly.
Tình ái không xanh như thơ, đến chung hơi thở,
rồi trôi
rất xa
Hạnh phúc lang thang như mây, cho hồn héo gầy,
khi ta
còn đây
Từng đêm qua trong giấc mơ,
vẫn mong
chờ có em về.
(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – bđd)
Nói theo
kiểu nhà Đạo hôm nay, thì bần đạo đây lại nghĩ thế này: từ lâu lắm, bần đạo cứ
giữ đạo theo kiểu con trẻ. Tức là: đem nguyên si những gì mình suy nghĩ về Đạo
đi vào cuộc sống rất thời thượng, mà chẳng lý gì đến thời thượng/thời hạ gì ráo
trọi.
Nói xa
nói gần chi bằng ta cứ nói thiệt, rằng: xưa và nay, người nhà Đạo mình giống
như bần đạo bầy tôi đây, lúc nào cũng suy tính tình trạng đi Đạo theo số lượng,
mà thôi. Cứ xét theo con số như thế, ắt hẳn tôi và bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên
khi đọc giòng chảy thống-kê ghi ở tuần báo Đạo Sydney, như sau:
“Khảo sát/nghiên-cứu mới về cuộc sống của Giáo-hội
Công-giáo Úc vừa qua cho thấy: đang có sự gia-tăng đáng kể về số lượng cư-dân
đa văn-hoá, nữ-giới có học-lực cao so với dân-cư bình-thường ở các quận/huyện trên
toàn nước Úc.
Khảo-sát trên cho thấy: 43% người Công giáo tham-dự
Tiệc Thánh là những những người đến từ nước ngoài. Thống-kê năm 2006 cho biết con
số những người này gồm 34% tổng dân-số ở Úc. Và, tính bình-quân thì 37% số
người đến từ các nước không thường-xuyên nói tiếng Anh. Con số nói trên lại cao
hơn số người dân Úc tính theo trung-bình; và có khoảng 22% số người có
quốc-tịch Úc đều sinh hạ tại các nước không nói tiếng Anh.
5 năm một lần, chính-phủ Úc thực-hiện thống-kê trên
toàn quốc và thực-hiện khảo-sát với nhiều giáo-phái khác nhau, trong đó có:
Công-giáo, Anh-giáo và Thệ-Phản ngõ hầu lập nên bức tranh cho thấy con số những
người còn đi nhà thờ dự lễ.
Tuần qua, sở Thông-kê Úc có đưa ra kết quả khảo-sát
thực-hiện vào năm 2016. Kết quả cho thấy rõ: số người Công-giáo hiện còn hành
Đạo trên khắp nước. Tổng số 30% người Công giáo Úc nói hai thứ tiếng khác nhau
tại nhà, là: tiếng Anh và tiếng nước ngoài. Bản khảo sát, còn cho thấy: chỉ 3%
số người được hỏi, trả-lời là: họ nói chỉ một thứ tiếng không phải là Anh-ngữ tại
nhà, mà thôi.
Người thực-hiện cuộc khảo sát ở đây, là Ts Ruth
Powell có cho biết: tổng số những người thuộc tầng-lớp sắc-tộc đa-văn-hoá vẫn
đi nhà thờ ở Úc nay gia-tăng đáng kể, dù các giáo-phái ở đây gồm toàn tín-hữu
không nói tiếng Anh chưa diễn-tả hết sự thật trong khảo sát.
Ts Powell còn cho biết: “So với nước khác, Úc có
tỷ-lệ giáo-xứ đa văn-hoá, cũng rất cao. Trong khi đó, số phụ-nữ đi nhà thờ dự
Tiệc Thánh thường đông hơn nam-giới, với tỷ-lệ là 62% trên tổng số giáo-dân.
Con số này, không làm Tiến sĩ Powell ngạc-nhiên chút nào, do có sự thể là:
“nữ-giới vẫn tiếp-tục là những người mộ-đạo hơn ai hết. Đó là chuyện lâu nay ai
cũng thấy rõ so với các tôn-giáo khác nhau trên thế-giới.
Nhiều giả-thuyết cho thấy lý do của sự-kiện này, là
do nhiều yếu-tố can-dự. Tuy nhiên, nhiều chứng cớ lại cũng cho thấy: hầu hết đều
do yếu-tố xã-hội và văn-hoá mà ra, như: truyền-thống tôn-giáo và nơi làm việc
là những yếu-tố có vai-trò quan-trọng, trong chuyện này.
Ngoài ra, hầu hết người Công giáo đi nhà thờ dự lễ
thường là các vị cao-niên, chứ không phải giới trẻ. Đặc biệt hơn, các vị ở vào
độ tuổi từ 50 đến 69, là những người hay đi lễ thường xuyên nhất (tức: 36% số
người dự lễ trên tổng-thể); trong khi đó, giới trẻ ở độ tuổi 15-29 là nhóm
người ít đi lễ nhất, có tỷ lệ chỉ gồm 9%, thôi.
Mức-độ học-thức rõ ràng chiếm ưu-thế hơn, so với
người Úc bình thường với tỷ-lệ 36% số người đi lễ, so với tỷ lệ 26% dân số trên
toàn nước Úc. Khảo-sát trên, còn cho thấy 45% người đi lễ đều là những người có
công ăn việc làm, chỉ mỗi 8% số người nói trên, là những người suốt ngày lo nội
trợ ở nhà và 14% là số người cao niên đã hưu trí.
Có được con số trên, người thực-hiện thống-kê phải
bỏ ra mất hơn một năm trời mới hội đủ. Thống kê 2016 ở Úc cho biết: chỉ độ 250,000
người đi nhà thờ chịu điền đơn khảo-sát trên toàn nước Úc, tức: hơn 3,000 nhà
thờ địa-phương thuộc 20 giáo-phái khác nhau. Để kết luận, Khảo-sát trên được
lập là cho cá-nhân địa-phận và tổng-giáo-phận, trong các tuần vừa qua, mà thôi.”
(Xem Genevieve Conway, Catholic stats reveal much, The Catholic
Weekly 18/11/2017 tr. 2)
Thống kê về
số người đi Đạo, chắc cũng không nói nhiều về thái-độ hoặc quan-niệm của người
thời nay về nhiều thứ. Chí ít là chuyện danh xưng/tên gọi các đấng bậc của
người mình. Một vấn-đề mà ít người dám đề-cập, vì sợ “đụng hàng”. Tuy nhiên, có
đấng bậc nọ ắt vẫn còn trẻ, nên mới dám dám đặt vấn đề sau đây:
“Sáng
sớm mùa Đông ở Canada, tuyết vẫn còn phủ trắng cao đến mắt cá chân, trên lối
đi. Bà Catherine, bà bếp Cha Sở bước chầm chậm và cẩn thận quay về nhà xứ sau
Thánh Lễ buổi sáng. Vừa đặt chân lên bậc thềm nhà xứ, thấy tôi đang quét tuyết,
bà vui vẻ chào tôi và bảo:”
-Peter, mang cây
chổi quét tuyết tới đây!”
Tôi tươi cười tiến đến
gần bà với cây chổi quét tuyết đu đưa trên tay, chưa đón ra ý bà muốn nhờ tôi
chuyện gì. Bà Catherine tự nhiên kéo váy đầm cao lên một chút và chìa đôi giày
bám đầy tuyết, thản nhiên bảo tôi:
-Lấy chổi phủi giùm
tuyết bám giày, để tôi đi vào không làm dơ thảm nhà xứ!”
Nụ cười vụt tắt
trên môi. Tôi không nghĩ là mình không hiểu tiếng Anh. Rõ ràng quá mà: Lấy chổi
phủi sạch tuyết bám giày bà đầm Catherine. Tôi cúi mặt chần chừ. Bà Catherine
vẫn giữ cao váy đầm, giơ đôi giày bám đầy tuyết, thúc giục:
-Phủi giùm mau đi
để tôi còn kịp vào chuẩn-bị cà-phê sáng cho Đức Ông Robert!”
Im lặng và cẩn
thận, tôi cầm chổi, nhẹ nhàng phủi tuyết bám giày bà Catherine, từng chiếc một.
Bà cười mãn nguyện, cám ơn tôi và nhanh nhẹn đẩy cửa bước vào nhà xứ.
Cửa chính nhà xứ
đóng ‘rầm’ một tiếng, chận đứng ánh mắt buồn của tôi đang dõi theo bà
Catherine. Tôi xấu hổ, cúi xuống đưa mắt nhìn lại chính mình, lần dò xuống tận
chân. Dù khoác chiếc áo Mùa Đông để ra ngoài trời quét tuyết, nhưng bên trong
tôi vẫn đàng-hoàng nghiêm-túc với tu-phục của linh mục, nghĩa là: vẫn áo sơ-mi
dài tay màu đen, cổ côn trắng hẳn-hoi, quần đen ủi thẳng nếp, giày da mùa Đông
loại đắt tiền cổ cao, có đế dày.
Tôi học và chịu
chức linh-mục ở Canada, với dáng vẻ phong-thái lịch-lãm không kém người da
trắng. Nếu hoàn-cảnh đất nước cho phép, tôi về lại quê nhà, chắc sẽ được đánh-giá
cao, không thua các linh-mục được du-học ngày xưa. Tôi nghĩ vậy.
Cái nhục “phủi
tuyết bám giày bà đầm” len vào trong máu, bốc cao tận đỉnh đầu. Ném chổi quét
tuyết trả lại góc tường nhà xứ. Lặng lẽ, tôi trở lại phòng làm việc, đóng cửa
khá mạnh tay, để toàn thân rơi phịch nặng-nề trên chiếc ghế bành làm việc. Tại
sao bà Catherine không gọi tôi là CHA? Vì tôi mới làm linh-mục và còn làm phó
cho Đức Ông Robert chăng? Tại sao bà Catherine dám bảo một linh-mục phủi tuyết
bám giày bà? Bà là bà đầm da trắng, còn tôi là tên tóc đen, da vàng đến từ một
nước nghèo chăng? Da màu phải phục-vụ da trắng hay người nghèo phải phủi tuyết
bám giày người giàu chăng? Nhiều câu hỏi tương-tự quanh đi quẩn lại trong tôi.
Cái nhục của một
linh-mục đã phải phủi tuyết bám giày bà đầm được tô đậm nét. Lòng tự-ái dân-tộc,
niềm tự-hào nòi-giống rực lửa trong tôi. Tôi mạnh dạn, hung-hăng đứng lên, định
đi tìm bà Catherine và Đức Ông Robert để làm lớn chuyện, cho ra lẽ. Bà
Catherine phải xin lỗi tôi về chuyện đã không gọi tôi là Cha và dám bảo một ông
Cha phủi tuyết bám giày bà. Gọi một linh mục bằng tên, thiếu lòng đạo-đức rõ-ràng.
Bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày, thiếu lòng kính-trọng chức thánh không
thể chối cãi.
Cái đứng dậy quyết-liệt,
cái vung tay tức-giận làm văng cây Thánh Giá trên bàn làm việc xuống sàn nhà.
Ảnh Chúa Chuộc tội từ lâu vẫn đứng vô-tri trên bàn làm việc, ngay trước mặt
tôi, rất kề-cận, nhưng nhiều khi tôi đã không thấy, hay thấy như một thứ trang-trí
tôn-giáo cần-thiết trong phòng làm việc của một linh-mục.
Tôi bước đến, chậm
rãi cúi nhặt ảnh Thánh Giá lên. Chúa nằm úp mặt trên sàn thảm, một cánh tay gảy
lìa thân. Chúa trông thảm-hại hơn bình-thường. Cánh tay gãy lìa còn toòng teng
nhờ đinh đóng chặt. Im-lặng nhìn Thánh Giá, cố ráp cánh tay gãy của tượng Chúa
vào thân, đặt trở lại trên bàn làm việc.
Tôi quay lại ghế
ngồi, ánh mắt vẫn không rời Thánh Giá. Tủi-nhục và thảm-hại của Thánh Giá làm
cái tủi-nhục phủi tuyết bám giày bà đầm lắng xuống dần. Ý-nghĩa về chức linh-mục
của Chúa Giêsu dâng cao, lấn chiếm tôi.
Ánh mắt vẫn không
rời tượng Chúa Giêsu chết treo trên Thánh Giá. Ngài là Linh-Mục Thượng-Tế, đang
giang tay tế-lễ trên Thánh Giá. Chính Ngài lập Bí-Tích Truyền Chức Thánh để
thông-ban cho tôi chức linh-mục của Ngài. Không ai gọi Ngài là CHA cả, nhưng
gọi là Chúa và là Thầy (Gioan 13:13).
Vậy tiếng CHA dùng
để gọi các linh-mục, tiếng ĐỨC CHA dành để gọi các Giám-Mục, tiếng ĐỨC THÁNH
CHA dùng để gọi Giáo-Hoàng La Mã đến từ đâu? Không đến trực-tiếp từ Chúa. Chính
Chúa đã có lần dạy các Tông-Đồ là ‘đừng tôn xưng ai dưới đất là Cha, vì chúng
con chỉ một Cha duy-nhất trên trời” (Matt. 23:9).
Nói thế, Chúa không
có ý chỉ-thị rõ ràng rằng ‘đừng gọi các linh-mục Công-Giáo là Cha’ như người
Tin-Lành suy-diễn nhằm chỉ-trích linh-mục Công-Giáo. Chúa đã khiển-trách môn-đệ
mình vì chuyện ‘tranh chức’ đòi làm lớn, ngồi chỗ nhất giống như người Biệt-Phái
và dạy họ rằng “Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ anh em mình.” (Matt.20:24-27),
cũng như đừng bao giờ tự tôn mình lên ngang hàng với Chúa, vì chúng ta chỉ có
một Chúa, người Cha duy-nhất trên Trời.
Tiếng “CHA” dành
cho linh-mục, “ĐỨC CHA” dành cho Giám-Mục hay ĐỨC THÁNH CHA, dành cho Giáo-Hoàng
được xử-dụng trên toàn thế-giới, đến từ truyền-thống của Giáo-Hội nhằm tỏ lòng
kính-trọng và ngưỡng-mộ những người có chức thánh linh-mục. Từ việc tin Chúa
Kitô là Đấng Cứu Thế, là Linh-Mục Thượng-Tế, Kitô-hữu đem lòng mộ mến, kính-trọng
Linh-mục, Giám-Mục và Giáo Hoàng. Họ được coi như những người thông-phần với
chức Linh-Mục của Chúa Kitô, như những người hy-sinh và hiến-tế đời mình cho
phần rỗi nhân-loại.
Phaolô nói khá
nhiều về chức linh-mục thượng-phẩm của Chúa Kitô (Thư Do Thái 4: 14- 5: 1-10)
cũng như về vai-trò trung-gian giữa Trời và Đất đã ảnh-hưởng sâu-đậm nơi những
kẻ tin. Người tin Chúa Kitô được dạy để đồng-hoá linh-mục với Chúa Kitô. Linh-mục
là hiện-thân của Chúa Kitô, là một Chúa Kitô khác, là người CHA tinh thần,
người CHA chăm sóc phần hồn cho các tín hữu, người tái sinh chúng ta qua bí
tích rửa tội.
Cũng rất có thể nó
đến từ cách xưng-hô kính-trọng dành cho những bô lão, những bậc đứng tuổi, đáng
kính trong Giáo-Hội thời sơ-khai. Từ “Presbyteroi”, nguyên-ngữ Hy-Lạp có nghĩa
là người đứng tuổi, bậc đáng kính, được dùng để chỉ linh-mục ngay từ buổi đầu.
Bà Catherine thiếu
lòng kính trọng thánh chức linh mục vì đã không gọi tôi, một linh mục là CHA.
Tôi thấy mình thiếu lý-chứng để kết-án bà. Người Tây Phương đặt tên để gọi. Họ
thích được gọi đích danh. Một linh mục biết nhiều tên của nhiều người và gọi
đúng tên, bất luận già trẻ lớn bé, sẽ được giáo-dân quí mến đặc biệt. Khi được
gọi đúng tên, người Tây Phương cảm thấy mình thực sự được quan-tâm. Người Á
Đông, đặc biệt Việt Nam mình, đặt tên để tránh gọi tên hay đặt tên để giấu tên.
Gọi tên ‘cúng cơm’ một người lớn, chuyện bất kính, không thể chấp nhận được.
Người mình thường
xưng-hô bằng ngôi thứ: Bác Ba, Cô Chín, Cậu Út thay cho tên. Trong những xứ đạo
người Bắc, chủ-tịch Hội Đồng Giáo Xứ được gọi là Ông Chánh hay Chánh Trương.
Giáo lý viên dạy kinh bổn được gọi là Bà Quản hay Quản Giáo. Người xướng kinh
trong nhà thờ được gọi là Ông Trùm. Người chăm sóc việc nhà thờ, nhà Cha được
gọi là Ông Bõ.
Việc tránh gọi tên
đi đến kết quả: không còn ai biết tên thật của nhau. Cách nào đó đã thiếu quan
tâm đến cá nhân, đến hữu thể mà chỉ chú trọng đến ngôi thứ, chức vụ hay địa vị
là cái tùy thể, tháp gắn vào hữu-thể.
Năm 1974 tôi biết
rõ một thiếu tá quận trưởng mất chức vì dám gọi vị Giám Mục Công Giáo là “Ông Đạo”.
Ai cũng cho là đáng đời, vì làm tới quận trưởng mà không biết gọi Giám Mục là
Đức Cha. Cũng là những kết án không hợp lý và bất lợi: Một quận trưởng không
Công Giáo, làm sao biết được cách xưng hô kiểu Công Giáo? Người ngoài Công Giáo
và nếu chịu ảnh hưởng Khổng Giáo chút ít, khó có thể gọi một ai khác ngoài cha
đẻ của họ ở nhà là cha. Vị quận trưởng bị cất chức nầy có nhận ra lỗi “ăn nói
vô đạo” của mình không?
Không! Ông ta đâu
có lỗi để nhận ra. Nhưng trên thực tế, ông ta đã nhận một bất công. Gánh chịu
bất công dễ đưa lòng người tới oán hận. Phải thú nhận rằng trong quá khứ, chúng
ta, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã sống theo kiểu “làm cha thiên hạ” hay “lấy thịt đè
người”.
Chúng ta đòi người
khác cho cái mà họ không có và không buộc phải cho. Chúng ta nghĩ thế nào, dễ
hay khó, tự nhiên hay bất thường khi nghe một cụ già bảy mươi tuổi, trong tiếp
xúc xã giao thường ngày, gọi một linh mục trẻ mới ba mươi tuổi là cha và xưng
là con?
Bà Catherine đã gần
bảy mươi tuổi, sấp xỉ tuổi mẹ tôi ở quê nhà. Chưa một lần xác định bằng lời,
nhưng xem chừng bà thay Mẹ tôi chăm sóc cho tôi trong mấy tháng qua: Bà nấu cơm
cho tôi, giặt giũ cho tôi, bà pha chế những món ăn hoà hợp giữa khẩu vị Tây-Ta
cho tôi vừa miệng.
Bà hay dò hỏi xem
Mẹ tôi làm gì cho tôi khi tôi đau ốm hay khi tôi buồn. Bà nhắc tôi đi ngủ sớm
và dâng thánh lễ chậm rải, sốt sắng. Bà thương chỉ bảo cho tôi phát âm từng chữ
tiếng Anh cho đúng giọng và chính xác. Bà cũng hay nhờ tôi khuân vác hay di
chuyển những vật nặng trong nhà xứ giống như Mẹ tôi ở nhà vậy.
Chuyện bà gọi tôi
bằng tên cũng là chuyện tự nhiên như Mẹ gọi con. Có bà mẹ nào, trong sinh hoạt
thường nhật, gọi con mình làm linh mục là cha bao giờ? Chuyện bà nhờ tôi phủi
tuyết bám giày sáng nay, trong trí bà, có thể không như chuyện giáo dân nhờ
linh mục, nhưng là chuyện mẹ nhờ con. Thật đơn giản!
Hơn bao giờ hết,
tôi thấy mình thật cận kề với Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang đặt trước mặt tôi,
trên bàn làm việc. Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm, đang giang tay, hiến tế
chính thân mình trên Thánh Giá. Tôi, một linh mục, một Chúa Kitô khác, tôi
giang tay dâng lễ hàng ngày trên bàn thờ. Tay giang, nhưng không dâng hiến,
không ban phát, không cho đi, nhưng đòi hỏi: đòi được kính trọng đặc biệt, đòi
được gọi bằng CHA mới thoả lòng. Tôi làm linh mục, một Chúa Kitô khác, nhưng
đôi khi tôi thật khác Đức Kitô: Chúa Kitô, đến để phục vụ, còn tôi, tôi sôi máu
tức giận khi phải phục vụ.
Tôi đứng lên, tìm
bà Catherine trò chuyện. Bà đang ở nhà bếp chuẩn bị cơm trưa. Tôi vui vẻ đến
gần hỏi xem bà có cần tôi giúp chuyện chi không. Bà Catherine vui vẻ nhờ tôi
chuẩn bị Salad và cà chua. Tôi vừa làm giúp bà vừa hát nho nhỏ trong miệng. Bà
Catherine đến gần, ngọt giọng bảo tôi: “Peter, you look so happy today!” Lại
cũng Peter suông! Nhưng tôi lại yêu nó. Tôi mỉm cười đắc ý trả lời: “Yes, Mom,
I deeply realize that I am a priest forever!”
Chữ “linh mục” tôi
nhấn mạnh và kéo dài. Suốt năm tháng qua, từ ngày chịu chức, tôi đã làm CHA và
buồn vì không được gọi là Cha. Hôm nay, tôi mới thực sự làm linh mục, làm người
được chia sẻ chức linh mục với Chúa Kitô, Đấng đến giang tay tế chính thân mình
cho phần rỗi của những người con.
Bà Catherine ơi!
Cám ơn bà thật nhiều! Bà đã không kêu tôi bằng Cha, nhưng bằng tên và đã nhờ
tôi phủi tuyết bám giày bà. Bà không thật sự thiếu lòng kính trọng tôi, hay coi
thường chức linh mục trong tôi. Nhưng bà cho tôi cơ hội nếm và sống ý nghĩa
chức linh mục.
Linh mục, kẻ giang
tay để tế lễ, để dâng hiến, để cho đi, để ban phát và phục vụ như một Đức Kitô
khác. Bà thật sự giúp tôi khước từ ước vọng làm CHA hay thích được gọi là CHA
theo ý nghĩa muốn được nâng cấp, mang tính ích kỷ thu gom của mình.
Linh mục, người Cha
tinh thần hay cha linh hồn, người sinh cho Chúa nhiều con cái qua bí tích Rửa
Tội, nhưng nhiều khi được gọi CHA làm tôi dễ thấy mình cao cả và quên đi vai
trò hy sinh, giang tay cứu độ mà Đức Kitô, Linh Mục Thượng phẩm đã chọn gọi tơi
để thi hành.” (Lm. Phêrô Trần).
“Giang tay cứu độ”,
còn là động thái
của Đức Chúa, Đấng từng có lời khẳng-định như sau:
“Bấy giờ những người đang
tụ họp ở đó
hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy,
có phải bây giờ là lúc
Thầy khôi phục vương quốc Israel không?"
Người đáp:
"Anh em không cần
biết thời giờ
và kỳ hạn Chúa Cha đã
toàn quyền sắp đặt,
nhưng anh em sẽ nhận được
sức mạnh của Thánh Thần
khi Ngài ngự xuống trên
anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là chứng
nhân của Thầy
tại Giêrusalem,
trong khắp các miền
Giuđê, Samari
và cho đến tận cùng trái
đất."
(Cv
1: 6-8)
Dĩ nhiên, không cần nói ai cũng thừa hiểu rằng “Chiếc áo dòng không làm
nên thày tu”, danh xưng/tên gọi không nói hết được thực-chất của câu chuyện
mình muốn nói, nhiều hơn thế.
Hôm nay đây, bần đạo bầy tôi cũng muốn “nói nhiều hơn thế”, nhưng “lực
bất tòng tâm”, nay tuổi già sức yếu, không còn khả-năng để nói nhiều, nói mãi,
nói dài dài những điều khô-khan, chẳng nên nói.
Quyết thế rồi, nay xin nhắn nhủ bạn và tôi, ta kết thúc bài phiếm “loạn”
lai ra ba sợi ở đây, cho đỡ rách việc.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những quyết tâm không
đơn giản
khó hiện thực.
No comments:
Post a Comment