Saturday, 2 April 2016
“A! Này bé, con dế nó đậu cành tre,”
Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh năm C 10/4/2016
“A! Này bé, con dế nó
đậu cành tre,”
Em bắt đem về, hát xẩm
mà nghe.
Đừng bắt đem về, đánh
lộn làm chi.
Loài giun dế nó mang
tội tình gì???”
(Phạm Duy – Bé Bắt Dế)
(Mt 28:18-19)
Úi chu choa!
Cái gì mà, “loài giun dế nó mang tội tình
gì?” Thế còn loài người? Có tội có tình gì không thế?
Để trả lời
câu hỏi, như em bé. Hãy cứ nghe câu hát tiếp, hạ hồi sẽ rõ:
A! Này bé, con dế nó nằm lỗ sâu,
Đào lỗ đem vào cho ở hộp cao.
Đừng bắt dế nghèo đánh bể đầu nhau,
Để nó
phải buồn rầu.
A! Này
bé, con dế nó tội tình chi?
A! Này
bé, con dế nó tội tình gì???
A! Này
bé, con dế nó ở đồng quê
Chinh
chiến lan về, nó phải tản-cư.
Nó sống
trên vỉa hè quanh-quẩn ngoại ô,
Làm
thân sống nương ở nhờ!!!
A! Này
bé, con dế nó cùng chị ve,
Trong mấy
tháng hè nó chỉ hoà ca.
Mưa nắng
thuận-hoà cho đẹp ruộng ta.
Con dế
hát đẹp ngày mùa…
A! Này
bé, con dế nó ở miền quê!
A! Này
bé, con dế nó ra kinh-đô…”
(Phạm Duy – bđd)
Chưa đâu,
thân phận con dế bé nhỏ, còn bọt bèo hơn nữa, khi ta biết được rằng:
“A! Này bé, con dế nó ở nhà em,
Nên nó
cũng thèm coi truyền-hình đêm.
Nó thấy
phi-thuyền lên tận mặt trăng
Mà
không thấy đâu chị Hằng!!!
A! Này
bé, con dế cúi đầu phục lăn.
Nó hát
khen rằng: Con Người Giỏi Dang!
Nhưng vẫn
chê rằng: thiếu hẳn tình thương
Lòng vẫn
chứa đầy bạo cường…
A! Này
bé, Này bé! Mau thuộc bài đi,
A! Này
bé! Cho dế nó coi Tivi!!!
(Phạm Duy – bđd)
Ấy! Ví thử ta thay thế cụm từ “em bé” và “con dế” bằng những
chữ rất khác như: “linh mục”, Hội thánh”, hay sao đó, hẳn sẽ có người sẽ thêm
vào đó cả triệu câu truyện kể rất dễ nể như sau này:
“Truyện
rằng:
Hồi ấy, vào thời nước Nga còn thuộc khối Liên-Xô có đảng Cộng-sản
do ông Stalin nắm trọn quyền-hành. Một hôm, ông Stalin quyết định ra đi thăm
dân để biết sự tình về cuộc sống của tầng-lớp lao-động rày ra sao. Nên, ông ăn
vận thật bình-thường như người dân ở huyện rồi ra khỏi điển Cẩm-Linh. Sau một
ngày dài, ông trờ tới rạp chiếu bóng để xem dân chúng vui sống ra sao.
Sau khi bộ phim kết-thúc, trên màn ảnh hiện ra hình-ảnh
lãnh-tụ Stalin giơ tay vẫy chào từ biệt bà con lao-động và quốc ca Liên-xô trổi
lên. Tất cả mọi người đều đứng dậy và hát theo, riêng chỉ có mỗi ông Stalin là
không đứng.
Khi ấy, có người đàn ông đứng ở phía sau hàng ghế của ông ghé
vào tai ông Stalin rồi nói: “Đồng chí à, tôi cũng biết rằng: chúng ta đều nghĩ giống như
nhau, nhưng để cho an-toàn hơn, tôi đề-nghị đồng chí cứ đứng lên là xong ngay! Và nghe thế, ông Stalin lưỡng-lự trong giây
lát, rồi cũng đứng, chắc để… mình tiễn-biệt mình!” (Truyện kể về “Tiếu-Lâm
Liên-xô” nhưng chắc gì đã đúng thật)
Ấy chết, đừng vội nhận-định, bàn-luận hoặc
nói năng sớm như thế mà làm gì. Hãy cứ nghe câu hát tiếp cũng rất hay như sau
này:
“A! Này bé, theo dế ra tận bờ đê
Đất sét
đem về ta nặn đồ chơi.
Nặn những
tay người hay nặn bàn chân
Tặng
cho những ai tàn tật.
A! Này
bé, theo dế ra trại định-cư
Coi những
ông già phá rừng trồng hoa
Chia sớt
ngọt bùi với trẻ mồ côi
Đời mới
chúc người phục hồi…
A! Này
bé, Con dế xin vài hòn bi!
A! Này
bé, Đem biếu những em xa quê!...
(Phạm Duy – bđd)
Và những câu
cuối của bài hát, còn đáng để bạn và tôi suy-nghĩ, bàn luận hoặc ít là cứ phiếm,
rất như sau:
A! Này bé, thôi nhé dế còn phải đi
Đi hát câu vè, trên nẻo đường xa…
Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha!
Và, ca hát câu giải hoà.
A! Này
bé, có lẽ dế về miền sông,
Có lẽ
lên rừng hát cùng loài công.
Hay xuống
cát vàng hát cùng hàng thông,
Ở giữa
cõi đời mịt mùng…
A! Này
bé, con dế đến mùa phải đi…
A! Này
bé, rồi sẽ có ngày trở về…
(Phạm Duy – bđd)
Vâng. Đúng thế. Dế hay bé, rồi cũng có ngày phải đi. Vì khôn
lớn, hơn loài thường. Vâng. Chính thế. Bạn đạo hay người đời, có ngày cũng vẫn
ra đi. Đi mà tìm về nguồn để học hỏi những lời vàng rằng:
“Đức
Giê-su đến gần, nói với các tông-đồ rằng:
"Thầy đã được trao
toàn quyền trên trời dưới đất.
Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần”
(Mt 28: 18-19)
Vâng. Lời vàng đầy ý-nghĩa như thế. Nhưng, xem ra thực-tế vẫn
như thể: nhiều người còn thắc mắc chuyện này nọ, hoặc chưa am-tường ý-nghĩa của
lệnh-truyền ấy có dành cho mình hay không, hoặc chỉ cho mỗi các tông-đồ thời
đó, nhấc chân đi theo Đức Giêsu mà thôi.
Ngày nay, ở ngoài đời hay trong Đạo, cũng có những sự-kiện/hiện
đáng để bạn và tôi, ta quan-tâm bàn luận, cũng rất nhiều.
Một trong các chuyện đáng bàn và đáng phiếm vẫn là chuyện Đạo
ở đời, trong đó có ý-kiến về chuyện: ta có nên cùng với bạn-đạo Chính thống hoặc
Cốp-tích Ai Cập định-vị lại ngày tháng cho lễ Phục Sinh hay không, như sau:
“Tổng Giám Mục Justin Welby của Canterbury, Anh Giáo hôm
16/1/2016 có loan-báo: Giáo-hội Anh sẽ tham-gia cuộc bàn luận diễn-tiến giữa Đức
Phanxicô và lãnh-đạo Giáo hội Cốp-tích để định ngày tháng thống-nhất tổ-chức Lễ
Phục Sinh cho hai Đạo…
Ông nói: ông muốn được thấy thời-điểm tổ-chức Ngày Lễ này sao
cho đơn-giản, đồng-thuận có lợi cho mọi người kể cả trường-học, bậc cha-mẹ đưa
đón con em, các doanh-thương cũng như kỹ-nghệ du-lịch thay vì mỗi năm cứ phải
xê-dịch ngày thánh, có năm có khi cách nhau đến 35 ngày. Riêng Giáo-hội
Chính-thống Đông-phương lại tính toán ngày tháng cho lễ Phục Sinh cũng khác hẳn
khi chức-sắc trong Đạo lại dùng lịch cũ của Julian.
TGm Welby còn xác-nhận là: các nhà lãnh-đạo Anh-giáo trên thế-giới
cũng đã họp bàn và đồng-thuận tham-gia bàn-luận với các Giáo-hội khác, để định
ngày thống-nhất. Nhưng ông cũng nói tiếp: thay-đổi thời-gian cho Lễ này cũng phải
mất 5 đến 10 năm mới đưa vào hiện-thực được.
Riêng Đức Phanxicô năm ngoái có thông-báo: ngài cũng muốn
bàn-thảo với các nhà lãnh-đạo Giáo-hội Cốp-tích mà số đông tín-hữu của giáo-hội
này sống ở Châu Phi và Trung Đông, để tìm ra ngày tháng thống-nhất cho sự-kiện
này.” (x.
tin trên Courier Mail của Queensland, Chúa Nhật 17/1/2016 tr. 11)
Ít hôm sau đó, Tuần báo Công-giáo ở Sydney là tờ The Catholic
Weekly cũng loan tin giống như trên, nhưng lại kết thúc bài viết bằng giòng nhận-định
bảo rằng:
“Phát-ngôn-viên Giáo-hội Chính-thống thuộc Nga có nói rằng:
Thượng-Phụ Mạc-Tư-Khoa hân hoan nghênh-đón ý-kiến về việc cùng nhau cử-hành
chung một ngày Lễ, bao lâu quyết-định này phù-hợp với lịch của Chính-thống-giáo.
Theo linh-mục quản-hạt Nikolai Balashov phó giám-đốc thường-vụ
Đại-kết thuộc Toà Thượng-phụ Mạc-Tư-Khoa nói ông đang chờ được nghe chi-tiết đề-nghị
từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi nói rằng:
“Giả như Giáo Hội La Mã có ý-định hủy bỏ ngày lễ Phục Sinh
tính theo lịch Grêgôriên được đưa ra vào phụng-vụ giờ lễ kể từ thế kỷ thứ 16 về
với lịch cũ, sử dụng lúc Giáo-hội Đông và Tây Phương hợp-nhất dùng ngày tháng cố-định
do Giáo-hội Chính-thống thiết-lập, thì chúng tôi hoan-nghênh ý của ngài. Thế
nhưng, nếu thiết-lập một ngày nhất-định cho Phục Sinh là việc không thể chấp-nhận
hoàn-toàn được.” (xem Catholic Weekly News ngày 24/1/2016 tr. 10)
Xem thế, mới
biết: định nhau sự/việc gì cho thống-nhất mà không chịu nhượng-bộ từ phía mình,
dù là Giáo-phái hoặc Giáo-Hội đã thánh-hoá cách nào đi nữa, cũng là việc khá
khó. Khó, thực-hiện. Khó, tạo niềm tin-tưởng vào nhau, rất thân-thương, nhịn
nhường là chuyện rất đời thường.
Từ ý-tưởng ấy,
đã nảy sinh nhiều ý-kiến có liên-quan đến chuyện đời/việc Đạo ở đâu đó, dù là xó-xỉnh,
góc chợ hay bục cao chót vót của thánh hội.
Nói thế rồi,
nay ta đi vào sự-kiện khác cũng đáng phiếm, như chuyện khác-biệt chánh-kiến cả
về thần-học, lẫn thánh kinh giữa các giáo-phái/giáo-hội cùng thờ một Đức Chúa, ở
nhiều nơi. Như, vấn-đề hoặc câu chuyện do đấng bậc nọ đề ra ở trong sách. Thế
nhưng, trước khi đi vào thực-tế của chuyện đạo, mời bạn và tôi, ta trở lại câu
hát cũng rất “dế” ở trên, mà hát rằng:
“A! Này bé, thôi nhé dế còn phải đi
Đi hát câu vè, trên nẻo đường xa…
Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha!
Và, ca hát câu giải hoà.
A! Này
bé, có lẽ dế về miền sông,
Có lẽ
lên rừng hát cùng loài công.
Hay xuống
cát vang hát cùng hàng thông,
Ở giữa
cõi đời mịt mùng..
A! Này
bé, con dế đến mùa phải đi…
A! Này
bé, rồi sẽ có ngày trở về…
(Phạm Duy – bđd)
“Đi tới quê mẹ, nối lại
tình cha! Và, ca hát câu giải hoà”, làm sao được như thế, khi mà nhiều đấng
bậc và nhiều người không chịu lắng tai nghe đấng bậc khác, người khác có nhận-định
khá sâu-sắc như sau:
“Tính-cách bộ-tộc của Thượng-đế ở đạo-đức Do-thái-giáo đang lớn
mạnh. Thuyết duy-vũ-trụ đang ló rạng. Thượng-đế đây khi xưa vẫn là còn như thế
cho đến khi Đức Giêsu biến-đổi thành Đức Chúa trước tiên đi vào hiện-hữu và rồi
thành Đấng Thánh-hoá cho đi sự sống có thẩm-thấu bộc-lộ cho mọi người thấy được
thực-chất của mọi hữu-thể.
Đức Giêsu sai-phái tông-đồ Ngài ra đi mà đến với thế-gian (Mt
28: 16-20). Các tông-đồ được lệnh vượt lằn ranh biên-giới của nước mình, bộ-tộc
mình và đặc-biệt hơn, vượt khỏi đạo-giáo của mình nữa.
Khi các ngài, cuối cùng, không thể nào thoát khỏi mọi lằn
ranh nằm bên trong nhân-loại nay trải rộng và cởi mở, các ngài được lệnh rao-giảng
Tin Mừng, tức là: tình thương-yêu vô bờ bến của Thiên-Chúa với mọi người mà
Chúa đã thực-hiện, một tình-thương vốn không chấp-nhận một lằn ranh cách biệt
nào hết.
Tình-thương không ranh giới sẽ yêu thương cả những người khi
xưa tìm cách đóng đinh Tình-Yêu của Chúa vào thập-giá. Nó bao gồm mọi loài, mọi
cây cỏ, mọi hành-tinh, mọi bộ-tộc mọi người.
Tất cả đều được Chúa chọn. Không một ai là người ngoại-cuộc,
ngoài hành-tinh. Không ai bị chia-cách khỏi Chúa. Ta sống trong Chúa. Chúa sống
trong ta. Ta là nhân-chứng ở Giêrusalem, Giuđêa, Samaria và “cho đến mút cùng của
trái đất” (Cv 1: 8). Tên của Đức Giêsu nay đã là Emmanuel, có nghĩa: Thiên-Chúa
ở cùng chúng ta (Mt 1: 23).
Và, khi Ngài phán: “Này, ta sẽ ở với các anh mãi.” (Mt 28: 20) tức là Ngài đã nói lên danh-xưng Emmanuel là
tính-cách rất thực. Và, khi Thiên-Chúa tự-do như Thần-khí, mọi lằn ranh cách-biệt
giữa quốc-gia và thể-chế, biểu-trưng bằng các ngôn-ngữ khác-biệt, thì lằn ranh ấy
bị tẩy/bỏ và mọi người được ơn Thánh-thần và bắt đầu nói thứ ngôn-ngữ của tình
thương-yêu (Cv 2: 1-4). Và, thần-khí ấy thông-chuyển ngang qua lịch-sử, thì lằn
ranh biên-giới lại ngã đổ.
Rồi, khi Phêrô nghe tiếng Chúa trong giấc mộng bảo rằng: “Những gì Thiên-Chúa
đã tẩy sạch thì ngươi không được gọi là ô-uế” (Cv 10: 9-16) Phêrô mới trổi dậy từ thị-kiến ấy và đã tẩy/rửa
cho Cornêlius, người ngoài Đạo. Sử-thi của Do-thái-giáo đã phá đổ mọi rào-cản rồi
đi vào với vũ-trụ trở thành anh-hùng-ca của nhân-loại.” (x. Tgm John Shelby
Spong, Jesus beyond religion, the sign of
Kingdom of God, The Sins of Scripture nxb HarperCollinsPublishes 2005 tr. 295-298)
Thi-sử hay
anh-hùng-ca của nhân-loại nay dàn-trải khắp mọi nơi. Trong mọi người. Thiên-sử ấy
gọi là tình thương-yêu. Là Đạo-lý của đạo-giáo rất Kitô. Là, gì nữa thì bạn và
tôi, ta cũng nên suy-tư mà nhận–định như thế.
Suy-tư/nhận-định
không theo kiểu nghe qua rồi bỏ. Nhưng là nhận-chân ra sự thật ở đời dù nhiều
khác-biệt, vẫn cứ là ảnh-hình của một sự thật tình-yêu được người diễn-tả qua
văn-chương/nghệ-thuật cùng âm-nhạc, cùng mọi thứ.
Trong cảm-nhận
sự khác-biệt trong yêu-thương đoàn-kết cũng rất Đạo, mời bạn mời tôi, ta vào với
lối diễn-tả nhè nhẹ ở truyện kể như sau:
“Sáng nào
cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo
dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào
những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra
ngoài đứng ngóng tiếp.
Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy
nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao
giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng
nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một
cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm
hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé đáng thương.
Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời
mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn
trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi với tay
kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi
nó làm gì ngày nào cũng ra đây? Và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được
rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên
nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:
- Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má
con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ...
Tôi hỏi tiếp:
- Còn con có đi học không ?
Thằng bé nói:
- Con không có đi học... con ở nhà phụ với má nuôi
heo...
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của
nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp
cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló
ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô
phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi
và nó gần gũi nhau hơn và thân nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi:
- Chú làm nghề gì vậy hả chú?
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là "Chú đang làm
thinh".
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên
ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1
buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày.
Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ
chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn
khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cữ sáng cà phê quán gần nhà. Không biết
chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chỗ ngồi mà không bữa nào vắng tôi.
Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi
cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi
biết ngay nó đang giấu giếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài.
Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang
cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì
tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm
nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang
đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách
nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.
Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy
nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được
che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống.
Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi.
Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng
đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào.... Vừa khom
người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc
tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm, một người đàn bà bệnh hoạn
xác xơ - cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng
hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố
nén...
Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực
kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh
ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui.
Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi
bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.
Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó
lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì
tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó
lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng
làm lòng tôi thêm nỗi xót xa.
Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi
nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để
thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm.
Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu
mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75
cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp
chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé
là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa
bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi
đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và
không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa.
Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria
mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và
đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm
tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên
dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng
bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh
thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không
cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại
thằng bé muốn giấu không cho ai biết!
Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã
qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm
một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm
đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.
Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm
mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để
kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn
an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó.
Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với
chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả
lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem
về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ
quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt
vì chịu không nổi.
Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: "Sao ai cũng tốt
với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng
tốt lắm giúp đỡ gia đình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi
hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không
thể nghỉ được, con xin lỗi".
Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi
quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha
mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương
lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói
"Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé"...
Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai
biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc,
tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng
vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó,
photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng
trụ sở ở Sydney.
Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua,
ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao
nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh
của ông còn có người nhớ đến.
Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng
hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người
phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. (Truyện kể do Sưu Tầm siêu tầm)
Đó chỉ là một trong muôn ngàn câu truyện ở đời để
nói điều gì đó, mà thiên hạ đời thường vẫn cứ nói và cứ kể. Kể ở đây, có thể để
nói lên lòng bác ái/yêu thương của cá-nhân hoặc tổ-chức giúp người kém may mắn.
Về các trích-dẫn ở trên về các Đạo
để tìm ra một ngày lễ chung cho Phục Sinh, là vấn đề kết-hợp/đại-kết, còn là và
vẫn là kết và hợp với tất cả mọi người, không phân-biệt tôn-giáo, già/trẻ,
gái/trai, tức: hết mọi người. Tất tần tật.
Kết và hợp trong đại-kết hoặc
nối-kết với người khác, đạo khác, tổ-chức khác vv.. còn là và sẽ là kết và hợp
hoặc kết rồi hợp trong tinh-thần nhín nhường, dành ưu-tiên cho người khác, ở
trên và ở trước mình. Ưu-tiên cả trong quyền-hành, tiền bạc và/hoặc chổ đứng
lẫn vị-thế ở đâu đó.
Kết và
hợp còn là và sẽ là sống cuộc đời rất Đạo ở nhà đạo hay ngoài đời. Sống như
thế, còn có nghĩa đem Đạo vào đời người trong khiêm-tốn, cởi mở rất hết mình.
Trong
tình-thần đó, mời bạn và tôi, ta lại sẽ hát mãi bài hát có con dế mèn và em bé
đơn sơ, hiền hoà, chân-chất, rất như sau:
“A! Này
bé, theo dế ra tận bờ đê
Đất sét
đem về ta nặn đồ chơi.
Nặn những
tay người hay nặn bàn chân
Tặng
cho những ai tàn tật
A!
Này bé, theo dế ra trại định-cư.
Coi những
ông già phá rừng trồng hoa
Chia sớt
ngọt bùi với trẻ mồ côi
Đời mới
chúc người phục hồi…
A! Này
bé, Con dế xin vài hòn bi!
A! Này
bé, Đem biếu những em xa quê!...
(Phạm Duy – bđd)
Hát
thế rồi, nay ta cứ thế mà sống tinh-thần thân-thương, chân-chất của các bé em
hiền-lành ở đời.
Trần
Ngọc Mười Hai
Vẫn
muốn sống
Như bé em
Chỉ chơi dế.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment