Saturday 16 May 2015

“Bây giờ là thu rồi đó em”,



Chuyện Phiếm đọc trong tuần lễ Chúa Thăng Thiên năm B 17/05/2015

“Bây giờ là thu rồi đó em”
Ai qua áo lụa mắt nhung mềm 
Bước chân hè phố hoen vạt nắng 
Và mắt em gợi mùa lá xanh”.
(Thanh Trang – Nói Với Mùa Thu)

(Mc 9: 22-23)

            Người viết nhạc tên Thanh Trang lại cũng nói với mùa thu, rất nhiều điều. Những điều thấy ở thi-ca/âm-nhạc giòng chảy suốt, vẫn không thôi.
            Thơ/nhạc với mùa Thu còn đọng lắng ở giòng thác cũng không mềm nhưng lắng đọng một tâm-tư, như sau:

“Bây giờ là thu rồi đó em. 
Cây khô nghiêng lặng đứng bên thềm. 
Gió quen rừng cũ mây về thấp. 
Sương trắng giăng mù vây kín đêm.”
(Thanh Trang – bđd)

Thi ca và lời hát, lâu nay còn là phương-tiện để người người chuyển cho nhau những tư-tưởng đầy ắp một tình-tự xuyên suốt, còn hát thêm:

Mùa thu về những phố không đèn. 
Mùa thu về những lối đường quen. 
Mùa thu dịu như tóc nhung mềm. 
Mùa thu anh xót xa tình quê.

Bây giờ là thu rồi đó em. 
Xôn xao mây lạc bốn phương chìm. 
Nước xanh hồ lũng khơi mờ biếc. 
Và nắng thu nhạt màu lãng quên”…
(Thanh Trang – bđd)

Bây giờ là Thu (mùa) rồi đó em”, nay không chỉ là lời ngắn gọn chuyên chở nhiều ý-tứ và ý-từ mà người hát vẫn trân-trọng. Thu mùa rồi đó em, còn là và vẫn là những nhắc nhở về một tình-yêu đọng lắng nơi tâm-can của ai đó, cũng nhiều thời. Tâm tình đó, tình-tự đây vẫn trải dầy xuyên suốt những ý lời mà nhiều người ở trong Đạo cũng như ngoài đời, còn gửi gắm.
Hôm nay đây, nhà Đạo mình vẫn cứ gửi gắm nhiều ý/lời rất “lung khởi” để bạn và để tôi, ta đưa mắt hoặc ghé tai đặt vào mà nghe ngóng, với cảm-nhận. Ý/lời được bạn và tôi tức bạn mình hoặc bạn và mình, cần chú ý.
Hôm nay đây, ý/lời cùng tư-tưởng của nhà Đạo còn nhắc nhở và nhắc tôi cùng bạn, ta nghe thêm cho khỏi quên. Tất cả, cũng chỉ là sự việc và những điều từng là “điểm nhấn”, mà các đấng bậc vị vọng trong Đạo vẫn từng hứng khởi gởi đến mọi người bằng nhiều cách. Người thì giảng-thuyết, kẻ bàn bạc về những quyết-tâm. Riêng bầy tôi bần đạo, lại chỉ sử-dụng đôi ba chuyện phiếm kỳ-lạ rất nghe quan, như sau:

Một bà cụ nặng nhọc lê bước trên phố. Bà cụ đi chân đất, trên tuyết. 
Một đôi trẻ, tay xách lỉnh-kỉnh những túi to - vừa nói chuyện vừa cười đến nỗi không để ý thấy bà cụ. 
Một người mẹ dẫn 2 đứa con nhỏ tới nhà bà ngoại. Họ quá vội nên cũng không để ý. Một viên chức ôm một sách đi qua. Mải suy nghĩ nên cũng không để ý. Bà cụ dùng cả hai tay để cố kéo lại hai vạt áo ngoài đứt hết cả khuy. Dừng lại, nép vào một góc ở bến xe buýt.
Một quý ông ăn mặc lịch-lãm cũng đứng đợi ở bến xe buýt. Ông cố đứng tránh xa bà một chút. Tất nhiên là bà già rồi, cũng chẳng làm hại được ai, nhưng nhỡ bà ấy bị bệnh lây nhiễm thì sao... 
Một cô gái cũng đứng đợi ở bến xe buýt. Cô liên tục liếc xuống chân bà cụ, nhưng cũng không nói gì. Xe buýt tới và bà cụ nặng nhọc bước lên xe. Bà ngồi trên chiếc ghế ngay sau người lái xe. Quý ông và cô ấy vội vã chạy xuống phía cuối xe ngồi. Người lái xe khẽ liếc bà cụ và thầm nghĩ : " Mình không thích phải nhìn thấy cảnh nghèo khổ này chút nào!" 

            Một cậu bé chỉ vào bà cụ và kêu lên với mẹ: 
                        -Mẹ ơi, bà ấy đi chân đất! Mẹ bảo chỉ có ai hư mới đi chân đất, đúng không mẹ? 
                        Người mẹ hơi ngượng ngập, kéo tay con xuống: 
                        -Andrew, không được chỉ vào người khác! - rồi bà mẹ nhìn ra cửa sổ. 
                        -Bà cụ này chắc phải có con cái trưởng thành rồi chứ!

Một phụ nữ mặc áo choàng lông ấm, nói thì thầm một mình:  
-Con cái của bà ấy nên cảm thấy xấu hổ mới phải! 
Phụ nữ này bỗng cảm thấy mình quả là người tốt, vì mình luôn quan tâm đầy đủ đến mẹ mình. 
            -Đấy, ai cũng phải học cách tiết kiệm tiền!

Một chàng trai ăn mặc bảnh bao thêm vào:
-Nếu bà ấy biết tiết kiệm từ khi còn trẻ thì bà ấy đã chả phải như bây giờ! 

                        Một doanh nhân hào phóng cảm thấy ái ngại. Ông lấy trong ví ra 1 tờ 10$, ấn vào                         bàn tay nhăn nheo của bà cụ, nói giọng hãnh diện: 
                        -Đây, xin biếu bà! Bà nhớ mua đôi giày mà đi nhé! 

Rồi ông ta quay về chỗ ngồi, cảm thấy hài lòng và tự hào về mình. Xe buýt dừng lại khi tới bến và một vài người khách bước lên. Trong đó có một cậu bé khoảng 16-17 tuổi. Cậu ta mặc chiếc áo khoác to màu xanh và đeo balô cũng to, đang nghe headfone. Cậu trả tiền xe búyt và ngồi ngay chiếc ghế ngang hàng với bà cụ, chiếc ghế đã bị bỏ trống từ khi xe buýt mới khởi hành. 
Rồi cậu chợt nhìn thấy bà cụ đi chân đất, bèn tắt nhạc đang nghe đi, rồi thấy lạnh cả người. Cậu nhìn vào chân bà cụ rồi lại nhìn sang chân mình. Cậu đang đi đôi giày cổ cao đầy lông ấm dành cho người đi trên tuyết. Đôi giày mới cứng và ấm thật. Cậu đã phải tiết kiệm tiền tiêu vặt cũng khá lâu mới mua được đôi giày này, bạn bè cậu đứa nào cũng khen đôi giày của cậu thuộc loại “chiến đấu”. 
Nhưng rồi, cậu cúi xuống và bắt đầu gỡ giây giày, cởi bí-tất rồi ngồi xuống sàn xe, cạnh đôi chân trần của bà cụ đang tím tái đi vì lạnh. 
-Bà, cháu có đôi giày này! cậu cẩn thận nói chậm rãi, rồi nhấc bàn chân lạnh cóng đang co quắp của bà cụ lên, đi tất và giày của mình vào chân bà. Bà cụ sững người, chỉ khe khẽ gật đầu và nói lời cảm ơn rất nhỏ. 
Lúc đó, xe buýt dừng lại trong giây lát. Cậu thanh niên chào bà cụ và xuống xe. Đi chân đất trên tuyết lạnh. Hành khách trên xe nhấp nhổm thò đầu ra cửa, nhìn đôi chân trần của cậu thanh niên, rồi xôn xao bình phẩm: 
                        -Cậu ta làm sao thế? một người lên tiếng hỏi. 
                        -Là thiên thần chăng? 
                        -Hay là con Chúa vừa xuống trần? 
Cậu bé con, lúc đầu có ý-kiến với mẹ nay chỉ vào bà cụ rồi quay sang nói với mẹ: 
                        -Không phải đâu mẹ! Con đã nhìn rõ, anh ta cũng chỉ là người bình thường thôi. 

Và công việc mà người thanh-niên trẻ vừa làm, thật sự cũng chỉ là chuyện bình-thường của một người bình thường vẫn thường làm mà thôi.” (truyện kể do St sưu tầm).

            Vâng đúng thế. Chuyện trong đời, chuyện nào cũng vẫn là chuyện bình thường do người rất bình-thường thực-hiện trong đời, để nói lên một ý-tứ nào đó, rất vui tươi.
            Vâng. Đời người, còn có những chuyện tươi vui để người người thấy vui và thấy tươi trong đời, mà vui sống. Vui và tươi, có thể là những truyện kể, hoặc chỉ là ý/lời rất đặc biệt trong đời, chí ít là niềm tin-yêu đi Đạo để ta nghĩ suy, nguyện cầu trong im ắng.
            Vâng. Nghĩ và suy, như tư-tưởng rất “lung” của đấng bậc thày dạy ở trời Tây, vào nhiều lúc. Tuy thế, trước khi đi vào những lúc và thời để suy-nghĩ, tưởng cũng nên quay về với lời ca tiếng hát, được nghệ-sĩ tỏ bày, rằng:

            Bây giờ là thu rồi đó em
Ru thêm cơn mộng đến êm đềm 
Mắt xưa sầu biết như ngày tháng 
Em đã xa và ta bỗng quên”…
(Thanh Trang – bđd)

Vâng. Hôm nay đây, lại cũng là lúc ta nghĩ và suy lời bàn về niềm tin-yêu, rất như sau:

“Mọi định-nghĩa về chữ “Tin” ở các từ-điển khác nhau, đều chia sẻ hai yếu tố quan-trọng. Trước nhất, Tin như tin-tưởng rằng thứ gì đó, tức lời tuyên-bố hoặc những câu nói nào đó, là đúng thực, trong đó có nhiều cường-độ chắc-chắn khác nhau.

Thật ra thì: tin-tưởng vẫn thường dính-dấp đôi điều không chắc chắn; bởi nếu không có gì chắc chắn, thì động-từ “Tin” sẽ là “Biết”, chứ không phải là “Tin”. Hai nữa, trong bối-cảnh đạo-giáo của ngôn-ngữ, tất cả những thứ ấy đều định-dạng “Tin” với những gì ta thường nói: Có niềm tin…

Thời buổi hôm nay, ý-nghĩa của chữ “Tin” lại rất khác với ý-nghĩa mà các tín-hữu thời tiên-khởi vẫn thường dùng mãi đến thế kỷ thứ 17. Ở tiếng Anh mọi người sử-dụng trước năm 1600, thì động từ “Tin” luôn luôn có túc-từ trực-tiếp là con người, chứ không là lời tuyên-bố. Khi ấy nói chữ “Tin”, không có nghĩa bảo rằng mình “Tin” rằng lời tuyên-bố ấy đúng-thực, dù có đôi chút chắc chắn, nhưng lại giống như trường-hợp ta vẫn nói vào thời buổi này: “Tôi tin Anh/chị”…

Có lần mục-sư Tin Lành nọ ở Tô-Cách-Lan có viết cho tôi một đoạn thư ngắn minh-định rằng ông không còn tin vào các yếu tố chính của nền tín-lý và giáo-điều trong Đạo nữa. Ông còn viết tiếp:

“Tôi từng đọc nhiều sách do thày viết, trong đó có cuốn “Trọng Tâm của Đạo Chúa” khiến tôi thấy mù mờ lẫn lộn không ít về những gì ông diễn-tả về “niềm tin” như thứ gì khác với tin-tưởng. Thày lại bảo: niềm tin là chuyện của con tim hơn là cái đầu. Thế nhưng, có hẳn là như thế không? Theo lịch-sử thì điều đó có đúng không? Tin-tưởng có là vấn-đề hay không thế? Phải chăng các tín-hữu Đạo Chúa từng suy nghĩ cũng khá nhiều vào thời đó: Tin tưởng vẫn là những chuyện phải lẽ để ta tin, không? Há chẳng phải, bao thế kỷ nay, các vị tử vì Đạo lại không chết vì các ngài có được lòng tin chính-đáng hay sao? Thế có phải là Đạo Chúa chính-đáng đã từng nói tin-tưởng là con đường dẫn đến ơn cứu-chuộc hay sao?...”       

Câu trả-lời của tôi khi ấy bao gồm công việc minh-bạch-hoá những gì tôi từng viết trên các sách để bảo rằng: Niềm tin Kitô-giáo trước tiên là có được sự tin-yêu đối với Chúa và là sự tin-tưởng vào Chúa từng thấy được ở Đức Giêsu Kitô.

Tôi cũng nói: lập-trtrường của tôi không phải bảo rằng “sự tin-tưởng” không thành vấn-đề. Tin-tưởng rất thành vấn-đề lắm chứ. Nhiều tin-tưởng “xấu xa” đã xảy đến qua cung-cách ta có được niềm-tin, và có khi còn tồi-tệ hơn. Tin-tưởng xấu xa rất thường là nguồn-gốc gây ra tính-thú bất khoan-dung, ác-nghiệt, bất công, tàn-bạo, bức-hại và man-rợ.

Thành thử, sự tin-tưởng “tốt-lành” lại vẫn thành vấn-đề đối với mọi người. Tin-tưởng có thể giúp ta quăng bỏ những vật chướng-ngại ngăn cản việc ta trở-thành Kitô-hữu, và quan-trọng hơn, sự việc ấy lại có thể định-hình con người chúng ta để trở-thành những con người đầy lòng trắc-ẩn hơn, công-chính và bình-an hơn.

Thành-thử, tin-tưởng rất thành vấn-đề. Nhưng ta cũng không nên tưởng-nghĩ rằng “tin-tưởng những điều tốt lành” đều có tầm quan-trọng rất chính-yếu. Niềm tin lại là động-tác sâu-sắc hơn của con tim, của chính con người mình ở mức-độ đậm-sâu nhất. Niềm-tin Kitô-giáo là lòng trung-tín và tin cậy hết mình vào Thiên Chúa như ta đã biết nơi Đức Giêsu Kitô”… (x. Marcus J. Borg, Speaking Christian, HarperOne 2011, tr.115-124)

Tin-yêu, đương nhiên là thế. Yêu thương và tin-tuởng cùng một lượt, lại vẫn không là chuyện của trí-óc, tinh-thần hoặc tư-tuởng ở tâm-thức. Tin và yêu, còn là và chính là động-thái của con tim phát tiết ra ngoài bằng trí-lực và hành-động rất đương yêu. Tin, lại mang tính sáng-lạn của hữu-thể “người” rất tiêu-biểu, từng được các đấng bậc, đã hơn một lần xác-quyết. Một trong các xác quyết ấy, được tóm gọn bằng lập-trường sau đây:

“Tác giả De Certeau đã khá ư là vất vả khi ông muốn gỡ bỏ kinh nghiệm về niềm tin ta có, ra khỏi lãnh-vực “hiểu biết”. “Tin”, không là động-thái “hiểu” và “biết”. Cũng không là sản-phẩm ta có, do từ bản-chất của những gì được kể là sẽ định-đoạt niềm tin, nơi ta.

Tin, không do ngôn-ngữ hoặc từ-vựng tạo thành hình-thái của công-thức. Cũng chẳng là sự việc ban đầu ta thoạt nhìn vào những gì diễn-lộ ra ngoài như sự thể đáng để mọi người tin. Nó không là động-thái qui về nội-dung khiến ta đặt tin-tưởng vào đó và nó lại cũng không được hỗ-trợ từ các định-nghĩa/diễn-giải không tùy-thuộc một cách trực-tiếp, cấp-bách vào “đối-tượng” ta vẫn tin; và nhiều người lại cứ cho rằng: đó là cung-cách diễn-đạt theo khoa học. Và, nó cũng không là kết-cuộc có được từ văn-bản đáng tin cậy.

Khi niềm tin được trình-bày theo cách-thức như thế, ta lại bảo: không hẳn thế! Trên thực tế, chẳng làm sao có được tính khách-quan đệ-tam-nhân về những chuyện như thế. Không thể có được thứ nối-kết nào khả dĩ đưa ta vào ‘thực tại’ này”... (x. Lm Kevin O’Shea,CSsR Tin, Động-tác phát tự con tim, www.giadinganphong.blogspot.com, 25-8-2013)

Và thêm nữa, đấng bậc thày dạy ở Úc lại khẳng-định thêm bằng xác-quyết khác không thiếu sự chắc-nịch cần có, rất như sau:
  
“Tin, là cung-cách khác-biệt quyết trở nên con người. Đây, là cung cách thực hành nghệ thuật sống rất khác biệt. Ở đây, nó tạo cho kẻ tin có được khả-năng nhận lãnh một lệnh-truyền hiện-hữu khác, đã biến thành chủ-thể tự-do dành cho chính mình. Đây, đích-thực một nguyện cầu/ới gọi; là: “nói với” chứ không phải là “nói cho” hoặc “nói về” ai đó. Là, đối ứng/đáp trả những chuyện mình nghe/biết. Và là: ứng-đáp lại giọng nói chứ không phải tuyên-ngôn.

Ở đây, có thứ gì đó thật khó có thể giản-lược được niềm tin. Đây, là nghệ-thuật “nghe” với cung-cách rất mới. Niềm tin, mang tính hư-vô vốn từ-khước sự thể tách-bạch khỏi lĩnh-vực từng mang tính khác biệt và nó những muốn ở lại trong đó, bất kể hiểm nguy có thể xảy đến.

Nói cách khác, rõ ràng là: nó như thể đang chuyển động về nơi nào đó chẳng ai biết rõ đó là chốn nào. Điều này nghe như thể có sự thể thích-ứng với tư-tưởng của Heidegger mãi về sau, như tác giả Rahner từng đề cập. Tác giả là người từng nói đến “hiện-tượng” niềm tin đang dần dà biến dạng...

Diễn-trình đúng cách của niềm tin như thế, là diễn và trình theo kiểu ngụ ngôn, thơ văn. Nó mang tính chất khá bí-nhiệm. Nó vốn dĩ là thi ca. Là, thứ ngôn-từ của sự việc truất-hữu. Thứ ngữ-vựng của sự thể chẳng-bao-giờ-nắm-bắt được toàn bộ sự việc. Chính đây là cung-cách cho thấy: tại sao và làm thế nào mà các văn-bản huyền-nhiệm lại quan trọng đối với sức sống của niềm tin. Huyền-nhiệm này, là “thực-thể tư duy” dìu dắt mọi hình-thái thần học.

Thế nên, mới có lời lẽ huyền-nhiệm chưa đến được tới tai người nghe, nhưng vẫn mang tính hữu-hiệu. Kẻ tin tưởng vào tính huyền-nhiệm có nguyện cầu rằng: Xin để con xa tránh những gì chúng con không thể quay lại mà quan-hệ”. (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR, bđd)

Như mọi lần, nay bầy tôi đây lại xin mời bạn và mời tôi, ta quay về vườn thượng-uyển có những lời vàng để đời như hoa đẹp từ Đức Chúa Nhân-Hiền từng dặn-dò, và nhắc nhở. Những nhắc-nhở dặn-dò từng phổ biến khắp nơi, như sau:

“Đức Giêsu nói với ông ta:
‘Sao lại nói: nếu Thầy có thể’?
Mọi sự đều có thể đối với người tin.
Lập tức, cha đứa bé kêu lên:
"Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!"
(Mc 9: 22-23)

Hôm nay đây, nhân nghe lời dặn-dò, nhắc-nhở từ ĐỨc Chúa Nhân Hiền và các bậc vị-vọng trong Đạo, bầy tôi bần-đạo đây thấy lòng mình hưng-phấn hẳn lên, bèn âm-thầm cất lên lời ca vang trên, nhưng hát rằng:

Mùa thu về những phố không đèn. 
Mùa thu về những lối đường quen. 
Mùa thu dịu như tóc nhung mềm .
Mùa thu anh xót xa tình quê.
Bây giờ là thu rồi đó em. 
Xôn xao mây lạc bốn phương chìm. 
Nước xanh hồ lũng khơi mờ biếc. 
Và nắng thu nhạt màu lãng quên”…
(Thanh Trang – bđd)

Hát thế rồi, lại những mong rằng: lời dặn dò đó sẽ ở lại với bạn và với tôi, suốt một đời.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ mong cho riêng mình
Thực hiện được lời dặn dò nhắc nhở
trở thành lời khuyên-nhủ
sẽ ở lại mãi với chính mình.   
  




          
                                                 








No comments: