Saturday 25 October 2014

“Này đây, bước chân xin tìm đến người,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 31 mùa Thường niên năm A 03-11-2014

“Này đây, bước chân xin tìm đến người,”
“Này đây, cánh tay xin chào đón người,
Này đây, cỏ cây xanh gợn ý tình,
Này đây, gió mây nghe hồn tái sinh”.
(Nhạc ngoại quốc – Lời Việt: Nguyễn Trung Cang)
(2Cor 1: 3-5)
            “Tìm đến người”, bằng bước chân hôm trước vẫn như thế. Thế còn, bước chân hôm nay thì sao? Có ai còn hát câu: Này đây, cỏ cây xanh gợn ý-tình”, “Gió mây nghe hồn tái sinh” nữa hay không”?
            Ngày nay mà lại hát những lời như thế, kể ra thì cũng khó. Khó, không chỉ ở mỗi câu trả lời mà thôi. Nhưng, còn ở cả ca-từ những nào “này đây” rồi lại “này hỡi” rất sau đây:

            Này đây, cánh hoa xin dâng đến người,
Đời như, nở hoa trong vạn tiếng cười.
Ầm vang suối reo như dậy núi rừng,
Bầy chim hót ca theo từng bước chân.
Này hỡi, trái chín thơm ngọt quá,
Này hỡi, những đóa hoa rực lá.
Này hỡi, suối mát chim rừng ca.
Hãy lắng nghe tình ta yêu nhau không rời xa!”
(Lời Việt: Nguyễn Trung Cang – bđd)

Có hát hay có chào, thì bao giờ mà chả như thế! Như thế, là bảo: hát hò gì, mà sao toàn hát những tình-tự rất hay ho, có thi-ca và âm-nhạc rất thực tế. Thế nhưng, thực tế ở đời, ít khi nào lại thấy xảy ra cuộc đời những “sống thực” nơi bạn và tôi, có khi chỉ thấy những truyện kể khá hi-hữu, vốn tức cười, mà thôi. Và đôi khi, vừa tức lại vừa cười như truyện tiếu lâm ngắn ở bên dưới:

“Truyện rằng:
Ngày xưa, có hai vợ chồng rất yêu-đương, hẹn hò nên họ bảo nhau lên chiếc tàu có tên là “Titanic” mà thưởng ngoạn cuộc du-lịch có một không hai trên đời. Tàu đi chưa đuợc bao xa, đã bị đắm. Cũng may là phần số của người vợ hôm ấy vẫn còn hên, nên bà được người ta đem xuồng cứu-hộ đưa vào một hoang đảo nhỏ ở cực Bắc. Liền khi ấy, ông chồng bà cũng vớ được tấm ván nhỏ, đã vật lộn với sóng biển suốt ngày trời, cuối cùng rồi cũng đến được bờ đại dương, ngay ngày hôm sau. Thoạt trông thấy mặt mũi ông chồng mình, bà vợ nọ bèn rít lên những âm thanh nghe qua ai cũng sợ, huống chi là ông chồng đang còn chết khiếp vì nhiều thứ:
-Suốt từ hôm qua đến nay, anh ở nơi nào mà chẳng thấy mặt mũi tăm hơi gì hết thế? Tàu đắm hôm qua, chứ có đắm hôm nay đâu mà lúc nào cũng trễ tràng? Anh mà không thật lòng khai báo, thì cứ biết đấy!...”

Vâng đúng thế. Anh mà không kể ra, thì có ma nào biết đâu, giời ạ. Thôi thì, giời hay đất ở hoàn cảnh này, cũng đều sợ vía “bà” hết mà thôi! Hình như câu của mấy ông chồng thuộc hội “sơ vơ nặng vợ” cũng đành nghe quen, thì phải?   
Vâng, đúng là như vậy. Nhưng ai từng sống đời vợ/chồng ở trời Tây hay bên Tàu, đều ít nhiều trải-nghiệm từng lai rai từa tựa như thế. Như thế, tức: cũng hệt như ở quê nhà khá là “nhà quê”, thì… bần đạo đây xin giơ 2 tay lên trời mà chào thua, thôi. Bởi, đã hơn hai thập-niên rồi, bần đạo đây vẫn là “người xa quê chưa một lần trở về”, nên chẳng biết gì về tình-hình vợ/chồng, chồng/vợ sống bên nhau ở quê nhà, ra sao hết.
Ở bên này, bần đạo chỉ biết có mỗi điều, là: nhà Đạo mình vẫn còn đó những chuyện và những lời khuyên để đời, hầu giúp mọi người sống “tốt Đạo/đẹp đời” cho phải lẽ. Nghĩ thế rồi, bần đạo xin vào ngay đề-tài chính-yếu, theo kiểu “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Mà, “miếng trầu đây hôm nay, là truyện kể để dẫn nhập cho bài phiếm lòng thòng khá cũng khô, ngõ hầu có dịp thanh minh với bạn mình, như sau:

“Vào thế kỷ đầu của Đạo Chúa, nhiều người có quan-niệm là: một khi đã đi tu rồi, thì ai cũng phải sống lánh xa các sinh-hoạt ở thế-gian, hoặc vào chốn sa-mạc mà hãm mình và chịu mọi khắc khổ, để nên thánh.

Nhân dịp Tuần Thánh năm ấy, cha Bề Trên Dòng khổ-tu dẫn các thày dòng của mình vào chốn sa-mạc, hoang-dã để ăn chay, hãm mình mà chuộc tội (?). Nhằm giúp các thày cầu nguyện cho dễ, nên mỗi thày ở một chòi riêng biệt, không ai tiếp xúc với ai hết. Vào khoảng giữa tuần, một vài thày ở tu-viện khác ghé vào chòi riêng của Cha Bề Trên để thăm ngài. Thấy các thày này đói bụng, cha Bề Trên nấu cho họ chút đồ ăn và cũng vì lịch sự, ngài cũng dùng đôi chút với họ. Các thày khác thấy khói bốc lên từ chòi của cha Bề Trên, nên đoán được là Bề trên của mình đã “phá chay”, bèn đến chất vấn. Thấy các thày đến, cha Bề Trên bước ra hỏi:
-Tôi đã sơ xuất phạm phải lỗi lầm gì mà các thày nhìn tôi bằng cái nhìn có vẻ xét-đoán thế?” Các vị bèn trả lời:
-Thưa cha, hôm nay cha đã vi-phạm luật chay kiêng mà tất cả chúng ta đã tình-nguyện tuân-giữ vì yêu mến Đức Kitô, Đấng đã chịu muôn vàn đau khổ vì lỗi phạm của chúng ta…
Cha Bề Trên từ tốn nhìn các thày bằng ánh nhìn thông-cảm rồi ôn-tồn bảo:
-Đúng thế. Cha đã phạm luật giữ chay, hôm nay. Duy có điều, là: hôm nay, Cha chỉ mỗi không giữ luật do con người đặt ra khi san sẻ thức ăn với mấy thày ở nhà khác đến thăm mình. Nhưng, cha vẫn nhận ra là mình đã sống luật của Chúa dạy. Thế, các thày không nghĩ là Đức Giêsu cũng từng làm như vậy sao? Thật ra thì, các thày lại đã xé Tin Mừng Chúa dạy thành hai mảnh riêng biệt. Các thày có nhớ Lời Chúa dạy là: trong 10 giới lệnh, chỉ có hai điều quan-trọng, chứ không chỉ một mà thôi, sao? Đúng là ta phải yêu mến Chúa hết lòng hết trí khôn, và yêu tha-nhân như chính mình. Chúng ta không vào sa-mạc để trốn-tránh lời thị-phi hoặc để sống một mình với Chúa; nhưng, để tìm kiếm tha-nhân và yêu-thương họ trong Chúa…” (truyện tích do Lm Mai Văn Thịnh CSsR kể trong bài: Nối Kết Lề-Luật, www.giadinhanphong.blogspot.com 21/8/2010)

Xem thế thì, sống đạo trong đời dù sống cùng/sống chung với người đồng Đạo hay đồng môn/đồng thuyền, người người vẫn luôn gặp nhiều cảnh-tình có những phê-bình hoặc phản-đối. Hệt như câu truyện để minh-hoạ, rất ở trên.
Sống đúng vai-trò người đi Đạo và giữ Đạo của Chúa, lắm lúc thấy đôi điều cũng khó khăn, căng thẳng, nhiều chỉ-trích. Hệt như nhận-định của vị thức-giả nọ ở Úc có tên là Ts Kevin Donnelly, từng viết trên tuần báo Đạo, hôm đó, như sau:

“Thời buổi hôm nay, không là thời-khắc tốt để ta chứng-tỏ mình là người đi Đạo, chí ít là Công-giáo. Bạn cứ mở nhật-báo ở Úc ra mà xem sẽ thấy các tờ: The Age, The Sydney Morning Herald hoặc mở đài ABC của Úc ra mà nghe, sẽ thấy nhiều tác-giả trong đó có Irfan Yusuf cứ viết dài dài những đoản-khúc phê-bình người đi Đạo, thấy rất rõ.

Thêm vào đó, có cô nọ tên là Wendy Squires lại cứ tung lên nhật-báo The Age ở Melbourne, các bài chua cay/châm-chích cốt vận-động quần-chúng làm phai mờ tinh-thần của Đạo-giáo và xói mòn dần niềm tin của 61% người Úc vẫn tự coi mình là Kitô-hữu.

Những người như tác-giả Wendy Squires lại quên bẵng đi rằng: một trong các hòn đá tảng làm cơ-sở cho nền văn-hoá và xã-hội Úc…

Ngay cả khi tác-giả đây phê-bình về phẩm-chất đạo-đức của hàng ngũ linh-mục trong các vụ xâm-phạm tình-dục trẻ thơ không có nghĩa bảo rằng: Đạo Chúa không có giá-trị tốt-đẹp, hoặc cứ lên án chúng ta là đã quay lưng mà kình-chống Chúa.

Bản thân tôi, từng lớn lên từ giai-cấp lao-động, sống tại khu gia-cư chính-phủ cấp ở vùng Broadmeadows, Sydney; có cha là đảng-viên Cộng-sản Úc và mẹ là người Công giáo, tôi vẫn cùng mẹ đều đều tham-dự thánh-lễ ngày Chúa nhật và vẫn thường tham-gia phong-trào Giới trẻ gọi là Eureka vào các  ngày Thứ Ba trong tuần. Cha mẹ tôi vẫn dạy dỗ con cái ngay từ buổi đầu về ký-giả chống Cộng B.A Santamaria cũng như lực-lượng rất có uy-tín và từng tạo nhiều ảnh-hưởng trong xã-hội suốt thể-kỷ 20 vừa qua, ở đây.

Cha tôi dạy cho con mình biết đôi chút về lập-trường xã-hội chuyên phân-phát lợi-nhuận tùy nhu-cầu của mỗi người. Còn mẹ tôi, lại dạy cho con mình biết lần hạt Mân Côi và đi đàng Thánh giá. Là người Công-giáo, tôi còn được dạy cho biết mình có lương-tâm chân-chính và ý-chí tự-do được Chúa ban cho để biết rằng: đời người gồm thiện/ác hai mặt rất phân-minh và cuộc sống ở thế-trần chưa hẳn đã là trọn-hảo rằng: phần tâm-linh cùng việc thăng-tiến bản-chất con người đều có tầm quan-trọng ngang bằng nhau vượt lên trên phần thể-lý/xác-phàm; bởi thế nên, cũng vẫn cần đến thế-giới và công cuộc vận-động thăng-tiến con người.

Hồi còn nhỏ, tôi vẫn được nghe kể về các dụ-ngôn đọc ở Tin Mừng và Lời Chúa nói ở KInh-thánh. Và, cho đến nay, những điều như thế vẫn còn vang vọng nói lên việc thiết-yếu đáng kể về bản-chất con người. Và, các câu truyện khác tôi còn được giảng giải rất kỹ từ thời ấu-thơ, đến nay vẫn tác-động lên tuổi đời của tôi nên khác với nhiều người, trái lại, chỉ đeo đuổi chuyện vật-chất, bạc tiền.

Lên bậc đại-học, tôi lại đeo đuổi chuyên-ngành văn-chương/chữ-nghĩa ở phương Tây, cùng với âm-nhạc nghệ-thuật. Các tác-phẩm về âm-nhạc cổ-điển nghe từ nhạc-sĩ phong-hồ-cầm tài danh là John Sebastian Bach như bản Thánh Lễ Cung Mi Thứ được trình-tấu nhiều lần tại trung-tâm thính-nhạc Melbourne vừa qua đã nhấn mạnh nhiều lên sự thể là Đạo Chúa của ta cũng đã gây ảnh-huởng đậm-sâu lên nền âm-nhạc đến độ nó đã là thành-phần nền-tảng của nền văn-hoá Tây Phương.

Nói một cách thực-tế hơn, nền luân-lý đạo-đức và niềm tin Kitô-giáo còn là động-lực chính-yếu từng gây ảnh-hưởng lên các sinh-hoạt bác-ái/từ-thiện qua các tổ-chức nổi danh như Salvation Army, The Brotherhood of St Lawrence và cơ-quan Caritas Úc Châu, vv…

Ngoài ra, ngày nay, chẳng còn ai nghi ngờ gì nữa, khi nghĩ là: hệ-thống bệnh-viện và giáo-dục có lẽ sẽ sụp đổ, ít ra là đối với người Công-giáo ở Úc, nơi có đến 20% học sinh, sinh viên nguời Úc cũng như những người từng đóng thuế cho chính-phủ đã tiết-kiệm cả tỷ đô cho đất nước này, vì đám học-trò tư-thục ấy đã giúp chính-phủ bớt đi được mối lo phải tài trợ khoản tiền này, nếu nền giáo dục Kitô-giáo không tồn-tại như trước.

Vốn là một người cha từng bị mất đi đứa con trai yêu quí trong vụ việc tài xế nào đó chạy xe đụng chết rồi bỏ chạy, nhiều lần tôi cũng trải-nghiệm nỗi đớn đau, sầu khổ về sự mất mát này khác và cũng ưu-tư lo ngại cho Đạo mình. Nhưng tôi vẫn tin rằng Đạo của chúng ta luôn được ban tặng sự an-bình cùng mọi hiểu-biết, vẫn tạo cho ta có dịp giúp-đỡ người buồn phiền và khổ đau mang hy vọng nhiều vào mai ngày.                  

Như tác-giả Julian Norwich từng đoan-quyết: “Vào những lúc cảm thấy tối-mù đầy tuyệt-vọng, ta vẫn còn cơ-hội tìm lại được sự ủi-an, yên lòng để thắng vượt.” Đúng thế tuy cuộc chiến phấn đấu chưa toàn-thắng và hành-trình cuộc đời chưa hoàn-tất, nhưng ta vẫn biết rằng ánh sáng ở cuối đường hầm cuộc vẫn còn loé sáng. Ánh sáng của hy-vọng vẫn là nguồn gốc cho cuộc đời mình, chí ít là cuộc đời của người đi Đạo. Thế nên, hãy vững lòng mà sống đúng vị-thế của Kitô-hữu, bởi dù có thế nào ta cũng không tránh được mọi khổ đau/buồn sầu dồn đến với mình. Đời người vẫn có những mặt đen tối và theo chủ-thuyết hiện-thực, thì ta vẫn bị thúc-bách giáp mặt với thực-tại. Và cũng một chủ-thuyết như thế lại vẫn luôn vực đỡ để ta tin tưởng vào ánh sáng, vào cả cuộc sống và tình thương-yêu trong đó ta luôn đuợc ôm ấp,  đùm bọc và bảo quản trước mọi phê-bình, chỉ trích bất kể nó từ đâu tuôn đến.” (xem Kevin Donnelly, Ignore the critics. Be a Christian, The Catholic Weekly 14/9/2014 tr. 19)

Thế đó, là: quyết tâm trong nhận-định có từ người nhà Đạo. Còn đây, lại là ca-từ của bạn bè từ muôn nơi gửi đến thêm câu hát, nhưng rằng:         

“Từ đây có nhau trên vạn nẻo đời
Cầm tay dắt nhau đi trọn kiếp người
Và ta sẽ chia yêu thương khắp trời
Tình yêu chúng ta lan rộng khắp nơi!”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

“Có nhau trên vạn nẻo đời”, và “Ta sẽ chia yêu thương khắp trời”, để rồi: “Tình yêu chúng ta lan rộng khắp nơi!” Quả thật cũng giống như ý-tưởng của phần lớn các bài giảng ta nghe mãi ở nhà thờ. Nhưng, hỏi rằng: ta có áp-dụng tinh-thần và đuờng-lối giáo-dục có từ Đạo Chúa hay không? Đó mới là vấn đề.
Vấn-đề ở đây, hôm nay còn là hỏi rằng: để thực hiện những điều mình từng nghe giảng giải và học-hỏi từ trường/lớp rất Đạo Chúa, tự nơi ta phải có được đặc-tính nào hầu làm được như thế?
Trong tinh-thần “học thày không tày học bạn” về sự đời, bần đạo đây cũng từng được nghe người anh em linh mục cùng Dòng, đã san sẻ các ý-tưởng có được từ các bậc thày, nay trích thêm để bà con mình suy nghĩ:

“Những năm tháng trở về trước, hệ thống truyền-hình-giây-cáp-có-tính-tiền ở Úc đã cho trình-chiếu một đoạn phim tài-liệu rất có nghĩa. Đoạn phim này, quay lại cảnh một chiếc xe tải chở đầy tiền bị đâm vào cột điện, ở bên đường. Do chạm mạnh, cánh cửa xe bên trái bị bật tung và người ta thấy rất nhiều đồng đô-la tiền giấy rớt xuống, vãi tung toé ngay cạnh đường. Lập tức lúc đó, có người đàn ông nọ đang tàn tàn đi dạo mát, hay chạy bộ thấy thế bèn đứng lại. Nhưng, thay vì chạy về phía ca-bin xem bác tài bị nạn nguy-cơ đến độ nào, thì ông ta chỉ lo vơ vét số tiền vãi tung, nhét đầy bụng và túi rồi thản-nhiên đi tiếp quãng đường còn lại, làm như không nhận biết chuyện gì xảy ra, lúc ấy. Dĩ nhiên, vì là phim tuởng tượng, nên trên đoạn đường hôm ấy chẳng thấy ai khác, ngoài người quay phim mà thôi…

Chương-trình truyền-hình nói trên là đoạn phim mang tính-chất giáo-dục người xem. Số đô-la tiền mặt mà khách bộ-hành kia vơ-vét/nhặt nhạnh chỉ là tiền giả do nhà sản-xuất cốt đề ra để người xem truyền-hình tự đặt cho mình câu hỏi về đạo-đức, như vẫn bảo: “Trong tình-huống đánh động như thế, người trong cuộc sẽ hành-xử ra sao cho phải lẽ? Có thể người xem, mỗi người một ý. Có người đồng ý với khách bộ-hành bàng quan cứ lý-sự: “Tiền rơi rớt bên đường là tiền vô chủ, ta không nhặt nhạnh thì người khác cũng nhặt thôi.” Có thể có khán-giả khôn-ngoan hơn, lại sẽ cho rằng: ở vào tình-huống như thế, thái-độ phải lẽ và thích-hợp nhất của người nhìn thấy tai-nạn, là: chạy đến xem người tài-xế có bị sứt mẻ gì không; nếu có, lại sẽ gọi điện cho cảnh-sát và/hoặc xe cứu-thương để kịp cứu-chữa.” (x. Lm Mai Văn Thịnh, Sống Khôn là Sống thật, www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 24/8/2010)

Như Ts Kevin Donnelly ở trên bình-luận về ảnh-hưởng của văn-hoá/giáo-dục từ Đạo Chúa, người đi Đạo như bạn và tôi, không chừng chính chúng ta cũng từng trải-nghiệm nhiều tình-huống giống như thế. Vấn-đề lại đặt ra, là: ta có hành-xử đúng tinh-thần Tin Mừng không? Hoặc, vẫn “giữ đạo như máy” giống nhiều thập-niên trước: chỉ biết đọc kinh, đi nhà thờ, hoặc cũng chay kiêng, xưng tội, đền tội mà chẳng lý gì đến người khác đang sống ra sao, hết?
Chủ-đề phiếm hôm nay, không để hỏi: ta có sợ bị người khác phê-bình/chỉ trích về lối sống Đạo của mình, không? Mà là, ta quan-tâm cỡ nào, về lời dạy từ Tin Mừng của Chúa. Hỏi đây, tức: cũng tự trả lời phần nào rồi.
Vấn-đề còn lại, là: cứ rút tỉa lời vàng từ đấng bậc hiền từ ở nhà Đạo, để suy-tư như sau:

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta.
Ngài là Cha giàu lòng từ-bi lân-ái,
và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.
Ngài luôn nâng-đỡ ủi-an chúng ta
trong mọi cơn gian nan thử thách,
để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ,
chính chúng ta cũng biết an ủi
những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.
Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô,
thì nhờ Ngài,
chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”.
(2Cor 1: 3-5)

Suy-tư thế rồi, có lẽ cũng nên làm nhẹ câu chuyện phiếm ở đây, hôm nay, bằng một truyện kể ghi-chú đầy trên trang mạng. Hôm nay đây, cũng nên trích dẫn thêm một truyện dân-gian thường nghe ở đâu đó, có ký tên như sau:

Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, “Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta.” Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.
Tôi đã có viết một bài về “Hai Ông Cháu” khi cháu tôi mới vài tháng tuổi. Bây giờ còn một tuần nữa cháu tôi sinh nhật lần thứ hai.
Tôi nhìn chồng mình càng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.
Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.
Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên
webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đổi!
Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.
Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.
Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.
Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.
Vấn đề ăn thì sao? Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, “Sao từ qua tới nay không cho tui ăn.”
Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.
Do đó về phương diện ăn uống cháu tiến bộ hơn ông. Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng, cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm. Còn ông nội giờ này cũng tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, “Chân này nè ông, giơ chân lên!” thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.
Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa chứ. Cháu bi giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.
Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm. Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen, ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, “Bạn tui, bạn tui.” Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ''Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp,” có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.
Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài , chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.
Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau không còn giống nhau như xưa.
Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh “Bà nọi, bà nọi. My bà nọi.” Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đảng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.
Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.
Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt “time out”.
Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn.
Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dậy ăn uống.
Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho tôi thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.
Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.
Người lính của tôi giờ đây già thật rồi. Giả sử chàng không bệnh như hiện nay thì theo thời đại Internet, chàng của tui cũng quậy chẳng thua ai. Chàng sẽ có biết bao nhiêu bạn bè, đồng đội thật để mà hẹn nhau tán gẫu, bàn chuyện cà phê cà pháo, chuyện trên trời dưới đất, chuyện nước nhà, chuyện thế giới, chuyện chân dài, chân ngắn, chuyện cơm, chuyện phở. Lúc đó tôi chỉ là bóng mờ bên cuộc đời đầy màu sắc của chàng.
Ông trời đã cho chàng sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.
Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười, “Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con không rời xa nửa bước. Chúc con hạnh phúc.” Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim. Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng. (Bài này được trích đăng từ trang mạng của hội cựu học sinh Ngô Quyền (http://www.ngo-quyen.org/), mang tựa đề “Ông và Cháu” của tác giả Nguyễn Thị Thêm).

            Trích ở đâu thì trích, vẫn cứ là truyện kể, để phiếm. Phiếm nhẹ nhàng, cả chuyện Đạo lẫn truyện kể ở đời, cho vui. Dù, có ai ở đâu đó đang thấy cay cay nơi con mắt
            Thế đó, một vài tư-tuởng nhỏ, vẫn do bầy tôi bần đạo đây, chỉ muốn phiếm nhè nhẹ để hôm nay vui, mà thôi.

            Trần Ngọc Mười Hai
            Có những ngày ngồi phiếm
            chẳng biết có đạt hay không, vẫn cứ làm.

No comments: