Saturday 26 July 2014

“Hỡi anh yêu xin anh đừng buồn,”



Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 18 mùa Thường niên năm A 03-8-2014

“Hỡi anh yêu xin anh đừng buồn,”
Có đôi khi em hay giận hờn,
Để cho anh quên đi ngày dài
Với bao đêm suy-tư miệt mài.”
(Lê Hựu Hà – Hãy Yêu Như Chưa Yêu Lần Đầu)

(1 Cor 5: 7-8)

            Vâng. Đúng thế. Tình yêu vào buổi đầu, tuy có ra sao, cũng vẫn là thứ tình dạt dào nhiều âu yếm, giống chiêm bao. Yêu lần đầu, là thứ tình cứ bảo nhau “đừng buồn”, dù “có đôi khi em hay giận hờn”, “anh quên ngày dài”, hoặc cả hai từng “suy-tư miệt mài”, đến quên chết.
            Vâng. Có lẽ đúng như vậy. Bởi, một khi đã yêu thương nhau, thì người kia hay bên nọ vẫn cứ hát các ý/lời đầy thơ, những là:

“Mắt môi đây xin anh đừng chờ
Chiếc hôn kia mong anh từng giờ
Ngón tay kia xin chớ hững hờ
Dắt em đi về trong đợi chờ.
Biết bao ngày đã qua, Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng, Rơi rụng trước mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta, Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha, Mộng xưa cũng vơi theo tháng ngày.
(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Thi-ca và âm-nhạc ngoài đời vẫn có ý-tứ và lời-lẽ ra như thế, suốt một đời. Nhưng còn, thực-tế cuộc đời nay lại có vấn-đề nổi cộm được báo chí ở Úc từng cảnh-giác, rất như sau:

“Mới đây, tác giả của bài báo trên tờ The Telegraph có viết rằng: có vị trước đây là luật gia tên là Chris Sevier vừa đệ đơn xin một giấy chứng hôn-thú để ông có thể lầm thân với vi-tính có tên là Mac – book. Trong cố gắng biện-hộ cho vụ án của chính mình, ông Sevier giải-thích rằng ông đã thành người ghiền dâm-thư qua máy vi-tính của chính mình. Và, rất nhiều khi, ông đã thấy mình bắt đầu thích những màn làm tình trên vi-tính hơn ăn nằm với phụ nữ thực-thụ.

Nhật báo The Telegraph tường trình rằng: luật sư Sevier tìm cách lập nên vụ-việc để chống việc hợp-thức-hoá “hôn nhân giữa người đồng-tính luyến-ái”. Ông Sevier có nói trước toà rằng: “Nếu đúng là, ngày nay ta thực-sự có nguy-cơ đặt ra cho hôn-nhân theo truyền-thống nam nữ và con cái, thì các cặp phối ngẫu giữa nam-nam hoặc nữ-nữ và giữa con người và máy móc cũng đề ra một sự thể hệt như thế”. Và ông luật-sư này cứ thế biện-luận rằng: nếu ta quyết bảo vệ quyền-lợi cho đồng-đều, thì ắt hẳn sẽ không thiếu lý-do để hỗ-trợ cho đường-lối/chính-sách ngăn-ngừa hôn-nhân giữa các cặp phối-ngẫu giữa con người và máy móc đâu thua kém hôn-nhân đồng phái-tính...

Thêm vào trường hợp luật-sư Chris Sevier đưa ra về hôn-nhân giữa người và máy, các nhà khảo-sát/nghiên-cứu còn cho biết rằng các dâm-thư hoặc phim ảnh kích-dục cũng có thể gây nên quan-hệ yêu-đương với người khác làm cho chính con người ít hài lòng thoải mái, hơn trước đó. Ngoài chuyện thường xuyên xem dâm-thư và phim ảnh kích-dục có thể khiến cho tâm-não con người bị có vấn đề. Mọi người nay cũng không lấy làm lạ là mấy khi biết rằng: những người mê man xem dâm-thư và/hoặc phim ảnh kích-dâm như luật sư Chris Sevier lại cứ thích để máy móc kích-thích mình về chuyện dục-tình hơn đàn bà phụ nữ, cũng rất nhiều.

Nói gì thì nói, các khảo sát nghiên-cứu mới đây còn cho biết: mê dâm-thư hoặc phim ảnh kích-dục cũng giống như mê ma-túy hoặc chích choác, thôi. Tất cả những thứ này đều huỷ-diệt hôn nhân cùng một kiểu như ma-túy hoặc các thứ thuốc bất-hợp-pháp, vậy. Đó là một trong các khám-phá mới đây của hai nhà phẫu-thuật-gia thuộc Trung Tâm Khoa-học Y-tế trường Đại học Texas, Hoa Kỳ”. (x. Nicole M. King, Porn addiction is as serious as drug addiction, MercatorNet 25/6/2014)             
   
Người đời nói thì nói thế, còn nhà Đạo đôi lúc lại vẫn bảo ban nhiều điều theo cách-thế tinh-tế, nhè nhẹ rất như sau :

“Đức Thánh Cha Phanxicô lên tiếng tố-giác những tư tế hư hỏng, thay vì trao bánh sự sống cho dân thánh của Chúa, thì lại cho những lương thực có thuốc độc!

Đức Thánh Cha đưa ra nhận định trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 7 giờ ngày 16-1-2014 tại nguyện đường nhà trọ thánh Matta ở Vatican: “Đoạn Kinh thánh này (1 Sam 4: 11) làm cho chúng ta suy nghĩ xem quan-hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với Lời Chúa như thế nào: phải chăng đó chỉ là một quan-hệ hình-thức, hời hợt, một quan-hệ xa lạ? Lời Chúa có đi vào, có thay đổi tâm-hồn chúng ta hay không? Nhưng, tâm hồn lại khép kín đối với Lời Chúa. Điều này làm chúng ta nghĩ đến bao nhiêu thất bại trong Giáo hội, bao nhiêu chiến-bại chỉ vì họ không cảm thấy Chúa, không tìm thấy Chúa, không để cho Chúa tìm họ! Và rồi sau khi thảm-trạng xảy ra, người ta cầu nguyện: Lạy Chúa, làm sao điều ấy xảy ra được? Chúa đã làm cho chúng con bị các lân bang coi rẻ...Chúa biến chúng con thành sự nhạo cười của những dân quanh chúng con”.

Đề cập đến những gương mù, những xì căn đan trong Giáo Hội, Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Chúng ta có xấu hổ không? Có bao nhiêu gương mù mà tôi không muốn nêu riêng rẽ ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều biết và chúng ta biết chúng ở đâu. Nhưng xì căng đan mà một số người đã bắt phải trả bao nhiêu tiền... Thật là một ô nhục cho Giáo Hội. Chúng ta xấu hổ vì những xì căng đan, những chiến-bại của các linh mục, giám mục, giáo dân? Lời Chúa trong những xì căng đan ấy thật là hiếm hoi! Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực, và thoải mái. Nhưng Lời Chúa thì họ không có. Họ biện minh: ‘Nhưng tôi có huy chương mà! Tôi có mang thánh giá mà!.. Đúng vậy, cũng như những người Israel xưa kia mang hòm bia Giao ước vậy! Nhưng, họ không có quan hệ sinh động với Thiên Chúa và Lời Chúa’.

Đức Thánh Cha nói: “Tôi nghĩ đến Lời Chúa Giêsu nói về những kẻ gây gương mù gương xấu... và nơi đây xì căng đan đã xảy ra: tất cả sự sa đoạ của dân Chúa, cho đến sự yếu nhược, sự hư hỏng của các tư tế”, (x. G. Trần Đức Anh O.P, Đức Thánh Cha tố giác những tư tế hư hỏng, www.Vietcatholic.com 17/01/2014)

Vâng. Nói như đấng bậc tối cao nhà Đạo, là nói lời khuyên bảo dân con mình hãy về với Lời Chúa từng nhủ khuyên, ban bảo để rồi vẫn mang nặng thứ tình yêu thương trong trắng, không xì căng đan, hoặc tì vết.
Vâng. Nói lời yêu đương như nghệ sĩ ngoài đời, là còn nói bằng câu ca rất như là:          

“Hãy cho em môi hôn nồng nàn,
Lỡ mai sau duyên ta muộn màng,
Sẽ không ai cho ta vội vàng.
Mới yêu đây nay nhưng sao phũ phàng,
Hãy yêu như chưa yêu lần nào,
Hãy cho nhau môi hôn ngọt ngào.
Hãy đưa em về nơi cuối trời,
Giấc mơ yêu cùng anh trọn đời.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Vấn-đề là: đã có tình-yêu trong trắng tức “Hãy yêu như chưa yêu lần nào” , và rồi: “Hãy đưa em về nơi cuối trời!”, để rồi ở nơi đó, anh và em sẽ có “Giấc mơ yêu cùng anh trọn đời” cứ yêu nhau, cách trong trắng. Ở nơi đó, sẽ chẳng có “xì căng đan” nào khiến anh và em đến phải “xấu hổ” với Lời Chúa, với mọi người.   
Vâng. Cũng một chiều-hướng đó, đấng thánh hiền nhà Đạo cũng từng dặn dò bảo ban những người anh người chị trong thánh Hội Nước Trời vào thời đó, rất như sau:

Anh em hãy loại bỏ men cũ
để trở thành bột mới,
vì anh em là bánh không men.
Quả vậy,
Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta.
Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ,
là lòng gian tà và độc ác,
nhưng hãy lấy bánh không men,
là lòng tinh tuyền và chân thật,
mà ăn mừng đại lễ.”
(1 Cor 5: 7-8)

Lòng tinh tuyền, không chỉ là “men” trong bột cũng rất mới, mà thôi, nhưng còn là ý-nghĩa cuộc sống của hết mọi người, chí ít là dân con của Đức Chúa.
Lòng tinh tuyền, lại cũng là lòng chân-thành của dân con nhà Đạo trong ứng-xử với mỗi người và mọi người. Ứng-xử ấy, vẫn là lòng-thành chân-chất Chúa từng tỏ-bày với con người từ thuở tạo-dựng cho đến hôm nay và mãi mãi suốt mọi thời.
Ứng-xử tử-tế với người trong Đạo hay “ngoài luồng” vẫn là lối ứng và xử của các đấng bậc trong Đạo diễn-giải thêm như sau:

“Thực tế đời người, ta thấy Chúa “ứng xử” tử tế với mọi sự, mọi người. Ngài ứng xử tử tế cả với đất đá, bông hoa, thú vật cùng loài người. Mỗi động tác, đều thể hiện trạng huống xuất từ một nguồn duy nhất. Ứng xử tử tế, là quan hệ với Bản Thể Chúa theo cung cách thi đua/khác biệt, có khi còn đối kháng. Nhưng mỗi loài và mọi loài, đều đáp ứng thích-hợp với quà-tặng Chúa ban, hầu trở thành “vũ trụ” hợp nhất mang ý nghĩa rất chung tình.     
    
Ứng xử gây kinh ngạc ở trời mới/đất mới, là ứng xử tử tế giữa hai bản thể tuy riêng rẽ/khác biệt, nhưng lại vẫn chọn sống chung và sống cùng cả triệu năm. Chọn cách sống, nếu không sống chung sống cùng, sẽ không thể sống tốt đẹp. Chọn cách sống ứng xử,hỗ tương khá lạ kỳ, là công việc Chúa vẫn làm với dân gian người phàm, mãi đến hôm nay...

...Các lý lẽ khiến có sự gãy đổ, thoái thác và thu hồi sự hỗ tương nam nữ trong hôn nhân không được chấp nhận ở Kinh Sách. Đó là vi phạm kết hợp hài hoà rất nền tảng. Là, phá vỡ giao-ước có từ thuở đầu. Cũng thế, giả như ta phá bỏ/huỷ hoại bí mật và thực trạng phối kết nam nữ do Chúa lập như luật Torah nói “cho phép ly dị”, và họ có làm thế cũng chỉ như một trong các thể-lệ được Chúa cho phép, chứ chẳng vì họ muốn làm. Dĩ nhiên, việc này tạo nỗi buồn sâu sắc trong lòng Chúa. Và, việc này có xảy đến cũng do con tim của nam-nhân và nữ-phụ đã chai đá, cứng cỏi. Sự cứng cỏi, do tâm can/tự sự vẫn muốn thoải mái hơn là chấp nhận quà của Chúa, tức mãi mãi sống chung cùng nhau, vui bên nhau.

Những lý do khiến truyền thống Giáo Hội qui trách nhiệm lên những người không có khả năng tiếp tục cuộc sống lý tưởng. Truyền thống Giáo Hội không ngần ngại gọi tình cảnh rẽ chia là “tội” hoặc “lỗi” mang tính khách quan. Bởi, tội lỗi vẫn là cách ly. Ân lộc mới nối kết. Chính vì lý do này, mà truyền thống Giáo Hội nói hôn nhân là ân lộc. Là, bí tích thánh thiêng, huyền nhiệm, vinh hiển.

Quan-hệ nam-nữ trong hôn-nhân đã chứng tỏ Thiên-Chúa đích-thực là sự kết hợp hài-hoà. Đó là mạc khải về sự kết-hợp nơi Chúa Ba Ngôi. Chính sự kết-hợp thánh-thiêng này nói lên điều Chúa muốn nói, là: Thiên-Chúa thực-tình phối-kết với nhân loại mà không muốn cách chia, phân rẽ. Hôn nhân đích thực là dấu hiệu của bí nhiệm này. Chính nhờ vào ánh sáng của phối kết, con người hiểu được thể nào là “nhập thể” và thế nào là “biến hình”. Nhờ đó, cũng hiểu được chính mình.

Sẽ không quá đáng nếu nghĩ rằng: chính sự tháp-nhập vào với nhau để nên một, xứng-hợp với ý-tưởng “thành trẻ bé”. Điều đó nói lên rằng: có thấy bất-xứng mới không hãi-sợ chuyện gần-gũi người kia/người khác và khám phá ra rằng sự sống đích thực nằm ở sự việc này.

Thánh Phaolô yểm-trợ cho ý-tưởng này và ngài còn tiến xa hơn thần-học Do-thái về vấn đề đó. Thánh-nhân thấy rõ sự kết-hợp hỗ-tương nơi hôn-nhân là gia-nhập/hiệp thông với đối-tác cả vào sự thể mà ta thường gọi là sự mỏng dòn/dễ vỡ nhưng lại mang tính Phục-sinh nơi người phối ngẫu phiá bên kia. Nam-nhân và nữ-phụ, cả hai đều sợ chết, nhưng mỗi người nam-nữ phiá bên kia mới bảo đảm mình không sợ chết, mà chỉ bắt đầu trỗi dậy, nên yên-tâm. Thánh Phaolô thấy nơi người phiá bên kia không như người khác, mà như là thành-phần của Thân mình Chúa sống lại.         

Thật phức-tạp khi nhận ra rằng: thái-độ của thánh Phaolô về thân xác, dục tình, thịt da nơi người nam và nữ “phía bên kia” không tiếp-tục đi sâu và trọn-vẹn vào sự Đạo đang diễn-tiến. Họ bao gộp sự tự-do và cảm-thông hỗ-tương mà ngày nay ít người phổ-biến. Riêng các sử-gia lại nghĩ: từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 5, Hội thánh đã từ từ lấy lại từ người La Mã và văn-hoá ngoại-giáo thái-độ “phải lẽ” với thân xác, gia-đình, hôn-nhân, cùng trinh-tiết và cả việc tiết-giảm dục-tình nữa. Điều này, khác với động-cơ thúc đẩy và cung-cách thực-hiện vẫn có do trường-phái kiểu thánh Phaolô mang tới.

Có lẽ, Kitô-hữu thời tiên-khởi không giống cộng-đoàn Phaolô, tức không có tự-do đủ để vui-hưởng cuộc sống như thánh-nhân dạy. Có lẽ đây là lý-do khiến họ tiến tới khuynh-hướng khắc-kỷ, tức nghiêng về đạo-giáo Đông phương; và từ đó, kéo theo chuyện các Kitô-hữu nay thành người ghét bỏ xác thịt, dục tính và tình dục; và coi thường người khác phái “phía bên kia”. Nhà thần học luân lý nào đặt nặng tính lịch sử vào đạo-giáo sẽ làm rõ nghĩa vấn đề này hơn.

Thánh Phaolô chú-tâm nhiều về việc hai người nam-nữ san-sẻ sự mỏng-dòn trước sự chết và sống lại, nên đã lạc-lõng cách nào đó. Lạc-lõng, cả trong thần-học Đạo Chúa, mãi sau này. Thần-học ấy, quyết nhấn mạnh rằng: cá-nhân con người vẫn làm được điều tốt đẹp cho mình nếu biết tự mình giúp mình. Qua nhận-thức sự mỏng-dòn, họ thường tự cho mình là người chín-chắn, trưởng-thành, chẳng cần lo. Nhưng lại không hiểu rằng chính mình cũng mỏng-dòn với người khác và mọi người”. (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San năm B, nxb Hồng Đức 2014 tr.217-218)  

Quả là, trong quan-hệ giữa hai người và nhiều người, luôn có sự mỏng-dòn rất đáng sợ. Nếu không cẩn-trọng, hẳn mọi đối-tác trong quan-hệ này, sẽ rơi vào tình-huống khó-khăn, rất khó tránh. Tình-huống tương-tự nơi đấng-bậc phạm-pháp được dẫn ở trên, mà không có sự chỉnh-sửa, sẽ còn gây tai-hại đến nhiều người, nhiều thời ở nhà Đạo nữa.
Sự thể ở nhà Đạo lúc này đây, bây giờ, vẫn là tình-huống cần được chỉnh-sửa. Chỉnh-sửa không chỉ bằng việc trang-trải hoặc thanh-toán bằng tiền bạc là xong; nhưng chắc chắn phải nhờ vào quyết-tâm của người trong cuộc cũng như thành-phần dân Chúa, muốn hỗ-trợ.
Thành thử ra, vấn-đề đặt ra cho ta, không thể như thái độ của quan-chức chỉ mỗi “cưỡi ngựa xem hoa”, xong rồi rồi thôi. Nhưng còn là nhận-thức trước đã, sau đến sẽ tra tay hành-động cho đúng cách, mới thành-công.
Nhận định thế rồi, tưởng cũng nên đi vào với thế-giới văn-chương truyện kể để tìm ra cho mình và cho người một bài học để đời, rất vui tươi:

“Truyện rằng:
Một hôm, Tô Đông Pha đến chơi chùa, cùng ngồi thiền với nhà sư, trong khi ngối thiền thấy an-lạc xuất-hiện. Xả thiền xong, Tô Đông Pha rất vui vẻ hỏi nhà sư:
-Ngài thấy tôi ngồi thiền như thế giống cái gì?
-Trông ngài giống như Đức Phật...
Tô Đông Pha nghe thế vui lắm. Thiền sư hỏi lại:
-Thế ngài thấy tôi ngồi thiền giống cái gì?
Tô Đông Pha đáp:
-Trông ngài ngồi thiền giống một đống phân bò.
Thiền-sư nghe thế cũng hứng-chí lắm. Tô Đông Pha cười suốt dọc đường về, nghĩ bụng hôm nay ta đã thắng lão hoà-thượng đó một phen rồi. Bị ta nói là đống phân bò mà không bẻ lại được câu nào cả. Tô Đông Pha về khoe với em gái là Tô tiểu muội:
-Hôm nay anh đã qua mặt được lão sư già đó rồi.
Tô tiểu muội hỏi chuyện gì, thì Tô Đông Pha hào-hứng kể lại. Tô tiểu-muội cười ồ lên, Tô Đông Pha càng hào-hứng. Hỏi mãi, Tô tiểu-muội mới nói:
-Muội cười là cười huynh đó, huynh lại thua lão hoà-thượng ấy rồi.
Tô Đông Pha ngạc-nhiên hỏi thế nào, thì Tô tiểu-muội đáp:
-Tâm của lão hoà-thượng là tâm Phật, nên thấy huynh cũng giống như Phật. Còn tâm của huynh thì toàn phân-bò, nên huynh thấy hoà-thương như đống phân bò thôi. Tâm của huynh như thế làm sao mà bằng được tâm của lão hoà-thượng được cơ chứ!”

Đọc truyện kể ở trên, chắc hẳn bạn cũng như tôi, ta đâu thấy có gì nối kết với vấn-đề mình đang bàn. Rất đúng. Thế nhưng, ở đây, người kể lại cứ muốn diễn-giải thêm đôi chút để câu truyện có lý-chứng nói về tình-huống rất không phải ở nhà Đạo hoặc ngoài đời. Tình-huống con người xử-sự có đúng và phải Đạo hay không cũng tuỳ tâm tùy tánh của mỗi người.
Quả là, có tâm Phật hoặc tâm-can con của Chúa, mới ứng-xử tốt với tha-nhân mọi người ở đời. Chí ít là người đối-tác ở đời phía bên kia, rất phái-tính.
Giả như bạn và tôi, ta vẫn thấy không mấy thuyết-phục với lý-chứng do người kể vừa đưa ra, thì đây xin mời bạn và mời tôi, ta lại xem thêm một truyện “tưởng-như-đùa” hoặc “chuyện phiếm” khác, rất như sau:

“Nhân-viên nọ, tới sở làm trong tình-huống hai tai bị băng bó. Ông Trưởng sở của anh ấy thấy vậy, bèn dò hỏi xem chuyện gì vừa xảy ra, hôm qua. Anh trả lời:
-Chả là: hôm qua, đang lúc tôi ủi chiếc ao sơ mi trắng nõn, thì chuông điện-thoạt bất chợt reo lên. Tôi vội chụp lấy bàn ủi điện ấy lên thay vì ống nói điện-thoại rồi áp vào tai mà trả lời.
Ông trưởng-sở bèn có ý-kiến phản-hồi rằng:
-Rồi xong! Điều này giải-thích được về một bên tai bị phỏng. Thế, còn tai bên kia, thì tại sao?
-Đó là do bởi cái thằng ngu bên kia lại gọi một lần nữa, thế mới chết!”

Thật ra thì cũng chẳng chết thằng Tây nào hết ráo trọi. Bởi lẽ, cả nhân-viên ở sở làm cũng như ngài Tô Đông Pha của ta, đâu biết rằng cuộc đời mình vẫn có những thứ và những sự rất tréo cẳng ngỗng! Bởi không thận-trọng và khôn-khéo thì rồi ra ai cũng có thể là nạn-nhân hoặc phạm-nhân của bất cứ sự việc nào trên đời, cả.
Nhận-định thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết-thúc chuyện phiếm hôm nay bằng lời ca trên do người viết nay thành người thiên-cổ, ra như vẫn còn khốn-khó với ca-từ rằng:   

Biết bao ngày đã qua,
Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng,
Rơi rụng trước mái hiên nhà.
Người sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha,
Mộng xưa cũng vơi theo tháng ngày.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Thật đúng thế. Giấc mộng lớn/giấc mộng nhỏ, của con người, nay cứ “vơi theo tháng ngày” đã qua, “dù con tim vẫn thiết tha” vào “biết bao chiều xót” , giống như người “ngồi đếm những giọt nắng, rơi rụng trước mái hiên nhà”. Nhà, của tôi và của người vẫn còn đó trên đời.

Trần Ngọc Mười Hai
Rất muốn cảm thông
với mỗi người và mọi người   
ra như thế.



No comments: