Wednesday, 4 July 2018

“Hãy mang đi hồn tôi”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 14 thường niên năm B 08/7/2018

“Hãy mang đi hồn tôi”
một hồn đầy bóng tối
một hồn đầy gió nổi
một hồn đầy hương phai.”
(Phạm Đình Chương – Khi Cuộc Tình Đã Chết)

(Thứ thứ nhất Phê rô 1: 11)

Mở đầu chuyện phiếm hôm nay về điều gọi là “Hãy mang đi hồn tôi”, “một hồn đầy bóng tối, nhiều “gió thổi” “hương phai” chắc cũng nên tự nhắc nhở bằng một chương/đoạn nói về nỗi khổ của Đức Giêsu, Kinh thánh vẫn kể rằng:

“Thần Khí Đức Kitô ở nơi các ngài,
đã báo trước những đau khổ dành cho Đức Kitô,
và vinh quang đến sau những đau khổ đó,
nên các ngài đã tìm hiểu xem
Thần Khí muốn cho thấy việc đó xảy ra vào thời nào,
trong hoàn cảnh nào.
(Thư 1Phêrô 1: 1-11)

Khởi từ Lời Đấng thánh hiền, ta vào giòng chảy tin tức nhà Đạo, vốn kể rằng:

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người em trai của Lm Karadima từng bị kết tội lạm dụng tình dục. 

Người em trai của Lm Fernando Karadima ở Chí Lợi có mặt trong nhóm linh mục và giáo dân được gặp Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày 2 tháng 6. Ông Oscar Karadima cho biết đã nói cho Đức Thánh Cha về những đau khổ nhục nhã mà gia đình dòng họ Karadima đã phải chịu đựng sau khi vụ tai tiếng lạm dụng tình dục liên quan đến người anh bị đổ bể. 

Ông cho Đức Thánh Cha biết linh mục Fernando là một người kiêu căng, độc đoán. Trong gia đình ai cũng sợ, kể cả bà mẹ. Các thành viên trong gia đình Karadima đều trở thành nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực. Thanh danh của gia đình Karadima bị hoen ố vì những hành động tội lỗi của người anh linh mục. Là một nhân vật có thế lực và thu hút, linh mục Fernando đã lôi kéo hàng trăm thanh niên đi tu làm linh mục trong số có 4 người trở thành giám mục kể cả giám mục Juan Barros tại giáo phận Osorno.

Nói với tờ báo La Tercera, ông Oscar cho biết: “Tôi chỉ muốn có cơ hội nói với anh tôi là phải công khai xin lỗi các nạn nhân, không chỉ im lặng trước mặt Chúa và cầu nguyện. Tôi sẽ nói là anh không còn sống bao lâu nữa thì nay tôi xin nhân danh cha mẹ tôi, hai em gái tôi đã chết, anh cần phải có một lời xin lỗi công khai”.

Vào năm 2010, cuộc điều tra của Toà Thánh đã đi đến việc kết tội Lm Fernando Karadima với hình phạt là phải ăn năn đền tội và cầu nguyện suốt đời. Ông Oscar muốn cho Đức Thánh Cha biết rằng 4 giám mục - con nghĩa tử của Lm Fernando - đã tạo một vòng vây che đậy tội lỗi của cha bố. Ngày 11 tháng sáu vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhận đơn xin từ chức của giám mục Barros. 

Ông Oscar còn tiết lộ: “Ai cũng biết uy thế của anh tôi qua sự quen biết và vần gũi với ĐHY Angelo Sodano là chủ tịch Hồng Y Đoàn từng là khâm sứ Toà Thánh tại Chí Lợi từ 1978 đến 1988, sau đó trở thành quốc vụ khanh của Toà Thánh từ 1991 đến 2006. Sau khi nghe những lời tâm sự này của ông Oscar, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy một tờ giấy và viết: “Gửi gia đình ông Oscar Karadima, cùng với phép lành và chia sẻ sự đau buồn lớn lao mà gia đình phải gánh chịu. Nhân danh Fernando, trong thinh lặng và không thể nhận ra các lỗi lầm của mình, Ta xin sự tha thứ của các con”.   

Ông Oscar cho biết sự cảm động trước hành động này của Đức Thánh Cha Phanxicô và cho biết đây là lần đầu tiên một chức sắc trong Giáo Hội nhìn nhận sự đau khổ của gia đình ông. 

Trong khi đó Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna of Malta - chủ tịch Uỷ ban điều tra vụ tai tiếng lạm dụng thuộc Thánh Bộ Tín Lý và Đức Tin - và linh mục Jordi Bertomeu Farno - một viên chức của Thánh Bộ - đã hoàn tất chuyến công tác từ ngày 14 đến 17 tháng sáu tại giáo phận Osorno với một thánh lễ tại nhà thờ Thánh Matthêu. Trong thánh lễ, Đức Tổng Giám Mục Scicluna và ĐC Jorge Concha Cayuqueo, giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Santiago - hiện là giám quản giáo phận Osorno - đã quỳ trước cộng đoàn và xin lỗi. Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna nói: “Sự hoà giải đích thực không thể xảy ra qua một sứ mạng chỉ diễn ra trong vài ngày, mà phải là một món quà từ Thiên Chúa qua một tiến trình lâu dài đòi hỏi sự kiên nhẫn, đại độ và khiêm tốn”.
(Vũ Nhuận trích dịch từ Catholicherald 20/6/2018)

Tin tức linh tinh ở nhà Đạo thì như thế đó. Truyện kể vui/nhẹ ở ngoài đời lại như sau:

Một ông nhà giàu mắc bệnh liên quan đến óc/não đi gặp chuyên-khoa, được vị này phán như sau:
-Ông bạn chỉ có chịu thay óc mới sống được. Ông có thể chọn một trong ba bộ óc như sau: một là óc của một vật-lý-gia với giá $48.000 USD. Bộ thứ hai là của một giáo sư đại học, giá $500.000 USD. Cuối cùng là óc của một bộ trưởng giá hai triệu tư USD, ông muốn thứ nào?
-Nhưng sao óc của các quan chức lại đắt đỏ đến thế?
-Đắt, là vì nhờ bộ óc mới cứng này, quan-chức nhà mình mới dám đặt vấn-đề nóng bỏng, như các đấng bậc ở nhà Đạo vậy.” (truyện kể trích từ mạng Sưu tầm, rất đáng nể)

Vấn-đề nóng bỏng do quan-chức đặt, đâu phải chỉ mỗi thế! Quan-chức nhà Đạo, còn ghê hơn thế nữa, mới đáng gờm. Gờm hay không, vẫn là chuyện thường ngày ở hyện nhà Đạo. Như mới vừa đây, bần đạo bèn đi một đường nhè nhẹ xục xạo ngõ ngách trong giới truyền thông báo đạo Đạo, bèn bắt chộp được một bài đăng tải theo dạng hỏi/đáp rất như sau:

“Hỏi đây, là câu hỏi của một giáo-dân từng đề ra hôm tháng Tư 2018, ở Sydney mà rằng:

Thưa Cha,
Con vẫn tự hỏi: không biết thánh Phaolô có ý gì khi ngài viết thư gửi giáo-đoàn Côlôsê bảo rằng: có điều gì đó còn thiếu-sót trong nỗi thống-khổ của Đức Kitô không? Theo con, Chúa đâu thiếu sót điều gì gọi là chưa hoàn-tất đâu. Nếu thế, điều mà thánh Phaolô nói trong bức thư trên có ý gì? Xin cha cho con biết để không còn nghĩ ngợi sằng bậy về các thánh trong đạo.” (Thắc mắc của một giáo-hữu ở Sydney, vừa đưa ra trên báo).

Và, thắc mắc này được đấng bậc vị vọng chuyên phụ-trách mục giải-đáp trên báo, như sau:

“Bản-văn mà anh/chị đề cập là như sau: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Côlôsê 1: 24)          

Các nhà chú-giải bình-luận chương đoạn này đều đồng ý rằng: Đức Kitô không để lại điều gì mà chưa hoàn-tất cả. Chẳng có gì thiếu sót trong nỗi thống-khổ Người gánh chịu vì Hội thánh hết. Nỗi thống-khổ Người chấp-nhận đã đủ hầu đền-bù mọi lỗi/tội của nhân-loại, ở mọi thời. Điều này được Người hàm-ngụ trong câu nói cuối cùng trên thập-giá, rằng: “Đã hoàn tất!" Và rồi, gục đầu xuống Người phó-thác Thần Khí.” (Gioan 19: 30)   

Vậy thì, điều mà thánh Phaolô muốn cho mọi người biết qua câu nói như thế, phải chăng để bảo rằng thánh-nhân đã hoàn-tất những điều còn thiếu nơi nỗi phiền-muộn của Đức Giêsu Kitô? Ta có thể phân-biệt nơi đây sự khác nhau giữa ơn cứu-độ khách-quan và chủ quan. Ơn cứu-độ khách-quan, là việc Đức Kitô sử-dụng nỗi-niềm khổ-đau Người chấp-nhận hầu cứu rỗi nhân-loại, điều này kết-thúc bằng sự khổ đau và cái chết trên thập-giá. Ơn cứu-độ khách-quan trở-thành hiện-thực theo cung-cách trọn vẹn trên đồi Calvariô. Theo nghĩa này, ta có thể bảo: toàn nhân-loại được ơn cứu-chuộc đền bù bằng cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô.

Nhưng, điều này không có nghĩa là: tất cả mọi cá-thể sẽ đích-thực được ơn cứu-độ vào chốn thiên-đường. Ơn cứu-độ chủ-quan áp-dụng vào phần thưởng ta có được nhờ sự thống-khổ của Đức Giêsu Kitô ban cho linh-hồn qua nhiều thế hệ.

Công-việc này còn diễn-tiến kéo dài mãi đến ngày viên mãn, về thời-gian. Không có nó, chẳng ai đạt chốn thiên-đường được. Chính điều này, khiến ta nói được rằng: có cái gì đó còn thiếu-sót nơi nỗi thống-khổ của Đức Giêsu Kitô…

Thánh Phaolô đã áp-dụng sự thật này cho chính thánh-nhân. Thế nên, ngài đã tìm cách theo chân Chúa Kitô mà vác thập-giá tiếp-tục công việc đem ơn cứu độ đến với muôn người.

Lại cũng có cách khác, để ta nhìn vào sự việc này hầu hiểu rõ Đức Giêsu Kitô theo ý-nghĩa là: Người mang hình-hài thể-chất của nhân-loại cả theo nghĩa Thân Mình Nhiệm Mầu của Hội thánh, mà Người chính là Đầu, hướng dẫn Hội thánh trong mọi chuyện. Đầu Hội thánh, khi đã chịu đau khổ để cứu độ chúng ta, nên cũng tùy vào ta là thành-phần Thân Mình Người, mà sẻ-san nỗi niềm khổ-đau hầu đền bù mọi lỗi/tội ta vướng mắc, để xứng-đáng với ơn lành cao cả ấy.

Ta có thể cống-hiến nỗi-niềm đau-khổ mình chịu cho người khác ngõ hầu họ chuyển đổi và bắt đầu tiến-trình sống thực ơn cứu độ của chính họ…

Thánh Phaolô nhìn vào xích-sắt dằn vặt ngài trong tù và thấy được nỗi thống khổ mình chịu như phương-cách chuyển-đổi nỗi thống-khổ từ Đức Kitô qua các linh-hồn và nhờ đó hoàn-tất sự Thống Khổ của Chúa bằng phương-cách bên ngoài.

Thành ra, ta hiểu được lời thánh-nhân nói khi bảo rằng: ông vui-hưởng nỗi đớn-đau của riêng mình vì lợi-ích của dân thành Côlôsê yêu quí. Và, bằng việc gánh chịu nỗi đớn-đau thể xác, Đức Giêsu đã hoàn-tất những gì còn thiếu sót nơi sự thống-khổ của Thân Mình Nhiệm Mầu của Người hầu tạo lợi-ích cho thánh Hội.” (X. Lm John Flader, “Our suffering plays its role in Christ’s victory”, The Catholic Weekly 22/4/2018 tr. 21)                     

Lại nữa, bảo rằng: Chúa gục đầu xuống, nói: “Đã hoàn-tất!” tức có nghĩa: ý-định của Chúa rày đã xong. Xong, một phần vụ. Xong, một cõi đời tạm-bợ ở dưới thế. Nhưng, ơn cứu-độ người phàm hẳn sẽ chưa xong hoặc không thành, giả như Chúa chưa Phục sinh/trỗi dậy cách trọn vẹn, chứ nhỉ?  Làm sao trọn vẹn, khi người đời cứ lê-thê kéo dài câu ca mà nghệ-sĩ trên, những hát rằng:    

“Hãy mang đi hồn người, chân đưa lời cáo biệt
Mưa nối liền vai người, hiu hắt liền đời tôi.
Khi cuộc tình đã chết, còn lời nào cho vui, đời đã đành chia đôi.
Khi cuộc tình đã chết, còn mắt nào cho nguôi, đời đã đành chia đôi.
Hãy mang đi hồn tôi, đầy tóc rối, đầy môi người, đầy tay siết
đầy ngực thơm, đầy bão rớt, đầy điên mê.
Xin nhớ đêm nay,
xin nhớ đêm nay mưa đắp mềm vai người, đắp mềm tình tôi.
Hãy mang đi hồn tôi một hồn đầy bóng tối một hồn đầy gió nổi một hồn đầy hương phai.
Hãy mang đi hồn người, chân đưa lời cáo biệt, mưa nối liền vai người hiu hắt liền đời tôi.
Khi cuộc tình đã chết còn lời nào cho vui đời đã đành chia đôi.
Khi cuộc tình đã chết còn mắt nào cho nguôi đời đã đành chia đôi.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

Cuộc tình người, với người đời, phải chăng như đã chết? Thế còn, cuộc tình của mọi người ở cõi tạm-dung một đời sẽ ra sao, nếu chưa hoàn tất? Có lẽ, ta cũng nên đọc tiếp giòng chảy tư-tưởng của văn-sĩ “ngoài đời”, từng kể rằng:

“Nghỉ hè, nghỉ phép, ta thường đi chơi xa, trú ngụ tạm tại khách sạn. Dăm ba bữa nửa tháng, lại trở về nhà. Thường khi về nhà, lọt vào khung cảnh cũ, ngả mình trên chiếc giường quen thuộc, ta luôn luôn cảm thấy thoải mái, thú vị. Khách sạn là cõi tạm, nhà là cõi thực. Cuộc đời này là một cõi tạm. Hầu như mọi người đều nghĩ như vậy. Nhưng cái cõi tạm này, chúng ta tạm trú hơi lâu, quen hơi quen tiếng, nên khó rời. Biết là tạm mà vẫn cứ thích ở... khách sạn!

Ông bạn da đen của tôi, rất tha thiết được chầu Chúa, đạo Cơ Đốc thuần thành, Chủ Nhật nào cũng đi nhà thờ, trong túi không bao giờ quên tờ giấy hai chục đô cúng dường, cuốn Thánh Kinh luôn luôn đeo theo người, nói câu nào cũng mời Chúa về góp tiếng cho chắc ăn. Một bữa, thấy ông vất vả với công việc, tôi giỡn:

-Này, Gabriel, cuộc sống coi bộ nhiều mồ hôi quá nhỉ?” Bạn tôi cười nhe hàm răng trắng lạnh:
-Đời mà! Chúa đã phán “Con phải đổ mồ hôi trán lấy bát cơm ăn”. Mình cứ phải theo ý Chúa vậy chứ sao.” Tôi làm bộ tỉnh phán theo.
-Tôi thấy cậu là con cưng của Chúa, sao không xin Chúa cất về ngồi bên chân Chúa cho nhàn hạ cái thân!” Gabriel lắc đầu quầy quậy.
-Còn sớm quá! Tôi còn mấy đứa nhỏ phải nuôi, chắc Chúa cũng hoãn cho một thời gian nữa chứ!

Bạn tôi không nói rõ một thời gian là bao lâu, nhưng bằng vào cái lắc đầu hung hãn như vậy, tôi dè chừng chắc là phải lâu lắm! Một ông bạn khác, ung thư thời kỳ cuối, con cái đã chồng vợ đâu vào đấy, đời chẳng còn gì phải lo lắng, cuộc sống rất thoải mái về vật chất, nhưng cái đau đớn của tật bệnh thật khôn lường, chép miệng than thở khi tôi tới chơi.
-Mình cũng tới tuổi rồi. Nhưng nếu Trời cho ít năm nữa thì quý hóa quá!

Sống có vất vả, đau đớn đến thế nào chăng nữa, vẫn cứ thích bám vào cõi tạm. Sao vậy? Bởi vì cái cõi mà người ta gọi là vĩnh hằng, miên viễn, vô ưu... ta chưa hề biết tới chăng? Hay là bởi vì từ cõi tạm bước qua cõi thật đó, người ta phải xuôi tay nằm dưới ba tấc đất hoặc uốn người trong ngọn lửa thiêu? Toàn những trò khó chơi cả.

Nhà sinh học Susanne Wiigh-Maesak, người Thụy Điển, vừa phát minh ra một trò mới. Trò này coi bộ dễ chịu hơn. Thi hài người chết sẽ được làm lạnh cực nhanh đến -18 độ C và sau đó nhúng vào nitơ lỏng có nhiệt độ -196 độ. Thi hài, sau khi được lấy ra khỏi dung dịch siêu lạnh, trở nên giòn tan như kính và vỡ vụn thành một hợp chất dạng bột. Tất cả số nước còn lại được hút vào một khoang chân không, trước khi cho chạy qua một màn kim loại để lọc bỏ tất cả những vật thể còn sót lại (những thứ cấy ghép trong thân thể) chưa phân hủy. Bột thi hài, sau đó, có thể được thiêu đốt, hoặc được chôn trong một quách làm bằng tinh bột bắp, đặt trong hố nông khoảng 30 phân. Sau khoảng một năm, oxy và vi khuẩn sẽ phá hủy chúng hoàn toàn, biến thi hài trở thành cát bụi. Bà Wiigh-Maesak cho biết bà đã đăng ký bản quyền phương pháp này ở 35 quốc gia. Phương pháp này giúp tránh làm vẩn đục môi trường như hai phương pháp thông dụng hiện nay là hỏa thiêu và chôn dưới đất quá sâu làm trì trệ quá trình phân hủy.

Không phải là các nhà sinh học, mấy ông bạn tôi cũng bầy ra nhiều cách... vượt biên từ cõi sống qua cõi chết vui lắm. Như ông Du Tử Lê chẳng hạn từng làm thơ như sau:.

“Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Ông Luân Hoán còn cãi cọ với... thinh không.
không từ đất sao phải về với đất
thịt xương này không thể mất khơi khơi
khi tôi chết xin đem giùm thi thể
chia cho thù lẫn bạn nhậu chơi
Ông Lưu Nguyễn cứ thiên thai lơ lửng.
mai này ta sẽ ra đi
người ơi có nhớ có gì nhắn không
trăm năm mây trắng bềnh bồng
về nơi đã đến mà lòng thảnh thơi
Dặn dò rối rít xong các ông ấy đi... uống cà phê. Bởi vì cái chết vẫn chưa trong tầm mắt. Cõi tạm này mới đích thực trong tầm tay. Tạm lâu ngày dễ có ảo tưởng đây mới là cõi thật.

Đời người được bao lâu? Trăm năm trong cõi người ta. Trăm năm? Mấy người được trăm năm? Bà cụ 114 tuổi của kỷ lục Guinness vừa qui tiên, nhà cầm quyền Việt Nam đang vận động cho một cụ bà Việt nam, cũng 114 tuổi, được ghi vào thay thế. Lóng rày, coi bộ Việt Nam ham giữ kỷ lục thế giới dữ. Hết bánh dầy, bánh chưng, bánh tét lớn nhất thế giới (có ở đâu khác làm thứ bánh này không nhỉ?), nay muốn đầu tư vào kỷ lục tới sự sống của con người (bệnh kỷ lục có phải là một biến tấu thời mở cửa của bệnh thành tích ngày cũ chăng?). Kỷ lục là thứ xịn. Thường thường bực trung khó với tới. Ông anh tôi bảo cứ sáu chục cái xuân già là gỡ đủ sở hụi rồi. Thêm được năm nào là bonus của trời đất, cứ hân hoan mà cám ơn!

Trong cái thời gian sống chỉ là tích tắc so với đời sống của vũ trụ, con người quậy như điên. Đủ món ăn chơi.. Kèn cựa, khích bác, tranh giành, lừa đảo, xô đẩy, chém giết... nhau. Mỗi người cố thu vén cho riêng mình. Nhà sang, xe xịn, lợi danh, tiền bạc... Mặc sức mà vung tay vung chân. Mặc sức mà lèn cho đầy túi tham. Nhiều người sống trong cái sân si tối tăm trong suốt cuộc sống. Trẻ, tiết vịt còn chảy rần rần trong người, hung hăng con bọ xít đã đành. Già, máu tưởng đã phải nhiễm lạnh mà vẫn cứ sân sân si si phát khiếp. Như Bà Margaret Ann Thomas-Irving, 58 tuổi, cư dân ở Hartford, Connecticut chẳng hạn. Từ tháng 10/2002 đến tháng 7/2003, trong vòng chưa đầy một năm, đã một mình cướp nhà băng tới 12 lần. Tổng cộng số tiền cướp được là 19 ngàn đô. Vũ khí của bà chỉ là khẩu súng đồ chơi con nít, hoặc ngon hơn, chẳng súng siếc gì cả chỉ dọa nhân viên ngân hàng là trong ví có súng là họ nộp tiền ngon ơ!

Cướp có nghệ thuật hơn là hai vợ chồng James Roland Clark, 71 tuổi, và Deloris Jane Clark, 66 tuổi, dân Florida. Ông chồng xách một bao cát vào ngân hàng dọa là chất nổ, bà vợ rồ sẵn máy xe chờ ở ngoài cửa. Cướp xong ông chạy ra phóng lên xe vù mất. Nhờ một gói thuốc nhuộm cho phát nổ sau đó cảnh sát mới tóm được hai ông bà già chịu chơi này.

Bà già Connie Parker, 74 tuổi, cư ngụ ở Nassau, tiểu bang Nữu Ước vừa trúng số độc đắc 25 triệu. Khi đi lãnh thì, sau khi trừ thuế má, bà cầm tay được 7,3 triệu. Bà ôm chặt lấy tiền, nhất định không chia cho ông chồng Kenneth Parker, 77 tuổi, đang bị ung thư phổi thời kỳ cuối. Ông chồng cho biết là ông đã đưa cho bà 20 đô để bà đi mua số nhưng bà cãi lại bà đã mua số bằng tiền riêng của bà. Ông chồng tức giận đâm hai đơn một lúc. Một đơn đòi chia tiền, một đơn xin ly dị sau 16 năm rưỡi chung sống. Rút cục, cụ đi đường cụ tôi đường tôi, và bà Connie phải thỏa thuận chia cho ông chồng một số tiền không rõ là bao nhiêu nhưng, theo tiết lộ không chính thức, là một phần ba số tiền bà lãnh.

Thất thập cổ lai hy. Hiếm có thiệt! Sống đã từng ấy tuổi tưởng tay chân đã làm biếng nhấc lên nhấc xuống, ai ngờ vẫn cứ chụp giật như máy. Để làm chi? Ôm về cõi viên mãn chăng? Cõi bình an đó có cần những thứ phù phiếm của cõi tạm này không?

Một cặp vợ chồng già đã trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Họ ăn uống kiêng khem và tập thể dục hàng ngày. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt, họ lên thiên đàng và được thánh Phêrô đón tiếp nồng hậu. Thánh Phêrô đưa hai người đi coi nhà bếp khổng lồ, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi golf... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi thánh Phêrô.
-Chúng tôi có phải trả tiền cho những thứ này không?
-Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà!
Đến giờ ăn, thánh Phêrô đưa hai cụ đến môt phòng ăn sang trọng, thức ăn ê hề. Cụ ông hỏi:
-Thưa Ngài, tất cả các món ăn này cũng miễn phí cả sao?
-Tất nhiên! Cụ ông lại rụt rè hỏi tiếp:
-Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đường, cholesterol chứ ạ?
-Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đường cơ mà! Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị mập phì, đái đường hay nhồi máu cơ tim gì cả. Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, quay sang cụ bà quát to:
-Tất cả do lỗi của bà! Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục hàng ngày thì tôi đã lên đây sớm hơn mười năm rồi! Cái cõi mông lung đó đâu phải chỉ có thiên đường. Những nơi khác có vui như vậy không?

Hai bợm nhậu ngồi bên chai rượu đã cạn quá nửa. Một ông hỏi.
-Ông bạn nghĩ là có thế giới bên kia hay không? Ông bạn gục gặc đầu.
-Có chứ! Mà chắc ở bển cũng vui vẻ lắm, nhậu nhẹt lu bù.
-Sao ông biết?
-Thì ông thấy đấy. Mấy chả đi có cha nào thèm quay về đâu! Dương sao âm vậy. Dân gian vẫn cứ tin như thế. Cái cõi đầy bí ẩn đó được hiểu như là một nối dài của cõi tạm này, cũng có cuộc sống và những cung cách sống cụ thể như nhau. Vậy nên mới có dịch vụ gửi UPS không thiếu thứ gì qua cõi mờ ảo đó. Nhà cửa, xe cộ, quần áo, nồi niêu soong chảo, vàng bạc, tiền đô giấy lớn 100.000, và cả... điện thoại di động nữa! Mấy bà thương chồng cũng không quên gửi những nàng hầu trắng trẻo xinh đẹp xuống cho các ông chồng bớt cô đơn. Dĩ nhiên, trước khi hóa vàng, mấy bà không quên rạch mặt, chọc mù mắt hình nhân để thỏa cơn ghen kéo dài qua hai cõi!

Tin như thế bị coi là tin nhảm. Mê tín! Nhưng mâm cơm cúng ngày giỗ ngày tết chắc có ý nghĩa khác. Không ai nghĩ là người từ cõi kia về ăn như chúng ta ăn (cơm canh còn nguyên đó chứ có hụt đi chút nào đâu!) nhưng làn khói nhang ấm áp mời người quá cố về thụ lộc được hiểu như là một cách tưởng nhớ tới người thân đã bước sang cõi khác trước chúng ta. Tấm lòng thương tưởng của chúng ta thể hiện qua cách cúng những món ăn mà người thân quá cố ưa thích khi còn sinh tiền.

Trong nghĩa trang, một ông dọn cơm canh cúng trên mộ vợ. Một ông người bản xứ thành kính đặt bó hoa trên ngôi mộ bên cạnh. Lễ bái, cầu kinh xong, ông bản xứ hỏi ông Việt Nam.

-Bộ ông tin rằng vợ ông có thể về ăn được những thức ăn ông cúng như vậy chăng?
Ông Việt Nam bình thản hỏi lại:
-Bộ ông cũng tin rằng vợ ông có thể về ngửi được bó hoa ông đặt trên mộ kia chăng?
-Chỉ một bước ngắn, chúng ta chuyển từ cõi này qua cõi khác. Ai cũng ngại ngần trước nhịp bước vô định này. Cõi tạm, cõi... khách sạn, chúng ta đã quen nếp sống. Cõi thực, cõi... nhà, chúng ta u u minh minh. Cái bước dùng dằng từ một chỗ đứng cân bằng trên mặt đất sang chỗ chênh vênh mây trời là cái bước mỗi con người phải trải qua. Cái điều chắc chắn sẽ xảy ra này chúng ta không muốn nghĩ tới. Càng thêm tuổi, chúng ta càng làm lơ không muốn nghĩ tới. Không nghĩ thì làm sao mà hiểu được.

Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”
(Mai Thảo – Cõi Tạm)

Bởi thế nên, để kết thúc chuyện phiếm hơi dài hôm nay, cũng nên thêm đôi chút hương-vị hài nhưng vắn vỏi, hầu “kết cho có hậu” bằng câu kinh ngắn rằng:


“Lạy Chúa,
Xin ban cho con một bộ máy tiêu hoá thật tốt và cũng cho nó những vật liệu để nó tiêu hoá.
Xin ban cho con một thân xác mạnh khỏe và biết cách tăng trưởng nó mỗi ngày.
Xin ban cho con một linh hồn thánh thiện biết gìn giữ nó cho tốt đẹp, trong trắng trước Nhan Thánh Chúa.
Cho nó không hoảng sợ trước tội lỗi nhưng biết cải thiện.
Xin ban cho con một tinh thần vui tươi không buồn chán, rên rỉ, thở than và thở dài.
Xin cho con coi nhẹ “cái tôi” nặng nề của con.
Xin ban cho con một cảm quan hài hước, và cái duyên để cảm nhận một câu khôi hài.
Từ đó con rút ra một niềm vui cho đời mình và chia sẻ cho anh chị em. Amen.”

Cầu thế rồi, hẳn bạn và tôi, nay có thể chấm hết giòng chảy “vớ vẩn” để còn tiếp tục những tháng ngày sống hùng, sống mạnh với mọi người? Đó, là quyết-định của tôi và có thể cũng là của bạn, ở đây hôm nay? Vậy thì, ta cứ hiên ngang tiến bước về phía trước, không ngần ngại hát thêm câu chót như sau:

Hãy mang đi hồn tôi”
một hồn đầy bóng tối
một hồn đầy gió nổi
một hồn đầy hương phai…”
(Phạm Đình Chương – bđd)


Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn nhắn nhủ chính mình
Và bạn hữu khắp nơi
một ý-nguyện nhỏ   
rất không thôi.

Wednesday, 27 June 2018

“Em không nghe mùa thu”


Chuyện Phiếm đọc trong tuần 13 Thường niên năm B 01-7-2018

“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?”
(Tùng Giang – Nam Lộc/ Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – 
Anh Đã Quên Mùa Thu & Tiếng Thu)

Cụm từ thơ văn “Chinh phụ”, “lòng người cô phụ”, có “khói sương mù thổn thức”, “Hàng cây khô sầu úa, hiu hắt đứng trong mưa”, phải chăng tất cả đều nói lên tiếng nói hoặc âm vang của “lặng thinh”? Của, cái mà người xưa vẫn cứ bảo “lặng thinh là tình đã thuận”?

Vâng. Có thể là như thế. Có lẽ, là như vậy. Tức: như người thời nay lại cứ quen ồn ào, náo động mà quên mất thứ “tình thuận” của lặng thinh.

Vâng. Mới đây, người bạn thân trong chốn văn-chương nghệ-thuật của bần đạo là anh Nguyễn Văn Tạ có đến thăm bần đạo rồi “thảy” cho cuốn sách của tác giả Diarmaid MacCulloch  có nhan đề là “Silence: A Christin History” với lời nhắn nhủ bảo rằng: “Anh cầm mà đọc cuốn này xem có nhiều ý-tưởng hay lắm!”

Vâng. Ý-tưởng của tác-giả Diarmaid MacCulloch lâu nay có ý bảo nhỏ với người đọc rằng: thời buổi hôm nay, thiên hạ cứ là hay “lào xào” với những chuyện vẩn vơ, nho nhỏ và vô bổ, chứ chẳng biết thế nào là “tình đã thuận” của một lặng thinh.

Vâng. Đành rằng, lặng thinh là tình đã thuận. Thế nhưng mà, thuận đây là thuận cái nỗi gì? Thuận nhĩ, thuận thảo hay thuận tình?

Thế, sao còn gọi là lặng tình để rồi phối hợp với bài “Tiếng Thu” rồi sẽ hát thêm:

“Bây giờ là mùa Thu,
Trời vắng khói sương mù
Hàng cây khô sầu úa
Hiu hắt đứng trong mưa
Mưa như lệ tình xưa
Lệ thấm mấy cho vừa
Lệ vương hoa phượng rũ.
Em có nghe mùa thu.”
(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư ­– bđd)

“Thu mang cho tình yêu một thời đã qua.
Thu mang cho tình yêu một thời xót xa.
Mùa thu đã xóa hết cơn mong chờ.
Mùa thu đã cất dấu chân ơ thờ.
Một người bước đi lệ tình ướt mi.
Hôm nay trời vào đông.
Tình đã chết trong lòng.
Niềm cô đơn chợt đến.
Em đã quên mùa thu.”
(Tùng Giang/Nam Lộc – Anh đã quên Mùa Thu)

Vâng. Mới rồi đây, quán nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney có màn trình diễn những hát hò, trong đó người trẻ chơi nhạc đã gom gộp tình/ý hai bài Tiếng Thu và Anh Đã Quên Mùa Thu làm một để rồi sẽ yêu cầu người hát  kết thúc ý/tình của buổi tối vui bằng câu ca mà rằng:

“Em không nghe rừng thu
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô…

Anh đã quên mùa Thu?
Mùa Thu! Không Em?”
(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư/Tùng Giang/Nam Lộc – bđd phối hợp)

Vâng. Có một điều, mà người đời thời nay cứ là hay lẫn lộn sự “lào xào” với chuyên thâm/cao” ở nhà Đạo, chính ra phải là “lặng thinh”. Bởi, có lặng và có thinh, thì tình mới thuận.
    
Vâng. Ngày hôm nay, cả “Anh” lẫn “Em” đều không thể quên mất mùa Thu nào đó; mà còn quên cả thứ “tình đã thuận” của “lặng thinh”, nữa đấy chứ.

Vâng. Nói thì nói thế, chứ nào ai hiểu rõ được thứ “lặng thinh” đích-thực của mọi sự, trước khi nhận ra được thứ “tình” và “ý” ấy!

Vâng. Vậy thì, lặng thinh là gì? Lặng thinh có giá-trị ra sao? Tại sao cứ phải lặng thinh thay vì tự do lào xào, náo-nhiệt, hoặc lăng xăng cho “tới bến”?

Vâng. Hôm nay đây, xin mời bạn và mời tôi, ta đi vào tìm hiểu tuy thoáng chốc, nhưng cũng là một dẫn-nhập cho lập-trường nào đó, rất mai sau! Thế nhưng, trước khi đi vào phần khô cứng của lý-luận và luận giải, xin đề-nghị tôi và bạn, ta nghe thử câu truyện ngụ ngôn nhè nhẹ, sau đây:

Mèo và Cáo giống như hai vị tiểu thánh gia đang trên lộ trình hành hương. Đó là hai kẻ đạo đức giả chân chính, hai lão đệ huynh, trong liềm hân hoan được đi du hành, kẻ đã chén không biết bao là gia cầm, người đã từng xơi nhiều pho mát. Vì đường đi quá dài và mệt mỏi, để rút ngắn lộ trình, hai con vật bày ra cách tranh luận cho quên quãng đường xa nhọc nhằn và cũng quên đi cơn buồn ngủ. Hai kẻ hành hương ra công kêu đến khản cổ lý lẽ của mình. Cuối cùng Cáo nói với Mèo.

-Có thể Anh cũng khéo léo đấy nhưng tài anh sao bằng tôi được? Tôi luôn có trăm mưu ngàn kế trong đầu.
Người kia đáp
-Thế ư? Tôi thì không, tôi chỉ có một kế thôi nhưng tôi chắc nó còn ăn đứt cả trăm kế sách của anh.

Cứ thế cả hai lại thi nhau cãi và về cái lý của mình kẻ nói có người nói không cho đến khi bất thình lình cơn nguy khốn xảy ra khiến cả hai im bặt, Mèo bảo Cáo:
-Hãy lấy một trong số hàng trăm kế của anh ra đi, bạn thân mến. Hãy tìm trong đầu anh một mưu chắc chắn ấy còn tôi, đây là kế của tôi.

Nói dứt lời, Mèo nhảy tót lên cây cao còn Cáo giở đủ các ngón mà chẳng ăn thua. Nó chui vào các hang khác nhau hòng lừa lũ chó nhưng đều bị thất bại. Khói xông vào trong hang buộc nó phải nhảy ra ngoài. Ngay lập tức hai con Chó nhanh chân nhảy bổ vào Cáo và xé xác nó ngay cú vồ đầu tiên.”

Và, dưới đây là “lời bàn Mao Tôn Cương” của người kể ở đâu đó:

Câu chuyện cho thấy kẻ lắm mưu mẹo đôi khi vẫn bị thất bại trong công việc vì mải lựa chọn kế sách, cái gì cũng muốn làm, muốn thử xem kế nào hay? Cho nên đôi khi chỉ cần một cách hay thôi cũng đủ giúp thành công rồi.” (trích và dịch do một người giấu tên trên mạng) 

Đang bàn về “lặng thinh” mà lại kể truyện Cáo và Mèo, thì có lẽ không mấy hợp lý cho lắm. Tuy nhiên, điểm nhấn ở truyện kể là hai chú Cáo và Mèo giải quyết “công chuyện” theo hướng “lặng thinh là tình đã thuận”, cơ đấy!

Thành thử, vấn đề lặng thinh mà người kể ở trên gọi là “cô tịch” lại cũng đi đôi với điều mà người ấy gọi là “hiện-diện” hoặc “hiện-hữu” cũng là chuyện “thường ngày ở huyện” rất đời người. Một đời, có những nhận-định rất ư chính-đáng, như sau:

Hiện diện và cô tịch. Một cặp bài trùng không thể tách lìa trong bí mật con người, nhưng không có vế nào tự mình là đầy đủ.

Tính chất có vẻ lưỡng diện này là một biểu hiện của cấu trúc căn bản của con người, và như chúng ta đã thấy, nó cần phải có một nhịp hai thì, ra khỏi mình và trở về mình. Nhưng đó cũng là thảm kịch hiện sinh của con người. Hữu thể kỳ lạ này luôn bất an, chẳng có thể tìm được bình an trong cô tịch vì sẽ bị sợ hãi tấn công, cũng như trong hiện diện với người khác. Vì họ sẽ nhanh chóng thất vọng bởi lẽ sự hiện diện đó cũng không làm cho họ mãn nguyện. Họ không thể tìm thấy trong chính mình lẫn nơi người khác sự viên mãn mà họ tìm kiếm.

Thảm kịch này không phải là một tai nạn tình cờ nhưng biểu hiện sự bổ túc thiếu sót căn bản, và đấy là một lời mời gọi âm thầm của Đấng Tuyệt Đối. Một sự bổ túc thiếu sót tự căn bản, thôi thúc họ phải tìm kiếm liên tục, khi thì trong cô tịch khi thì trong quan hệ, để có được sự nghỉ ngơi, hạnh phúc, là những điều luôn vượt tầm tay họ. Vì sự cô tịch hoàn toàn đòi hỏi phải có một sự viên mãn, một sự tự túc, nhưng đấy không phải là bản chất của con người! Và quan hệ của họ cũng không làm cho nỗi khát khao về tuyệt đối nơi họ được mãn nguyện, vì đấy không phải là bản chất nơi người khác! Aristote đã cảm thức rằng sự cô tịch chỉ có thể là một hồng phúc đối với Thiên Chúa vì Người tự Mình là viên mãn, đầy đủ.

Chính đây là nơi mà mặc khải Kitô Do Thái giáo đem đến một ánh sáng quyết định cho bí ẩn con người.

Thật vậy, nhân vật Kitô, Đấng công bố rằng Ngài là Con của Chúa Cha, được Thần Khí linh hứng, đã mặc khải rằng Thiên Chúa không phải là một hữu thể cô tịch nhưng là có tương quan, Người là một sự hiệp thông tình yêu giữa Ba Ngôi. Kitô giáo tin một Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Sự bộc lộ về mầu nhiệm nội tại của Thiên Chúa, dù cho vượt quá mọi ngôn ngữ, thì tình yêu đòi buộc phải có qua lại một quan hệ giữa các ngôi vị.

Hệ quả là một mặc khải liên quan đến con người. Thật vậy, trong chiều hướng mà con người được tạo nên theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, con người tự bản chất đã là một hữu-thể có quan-hệ. Họ chỉ có thể hiện hữu, triển nở, trở thành “người” nhờ và trong các tương quan: “yêu và được yêu”. Tương quan ấy là yếu tố kết tinh nên bản chất, căn tính của họ.

Toàn bộ con người họ như hướng về cùng đích này: 
Đó là sự Viên Mãn của tình yêu Thiên Chúa.

Chẳng phải là đặt nền tảng trên mặc khải ấy, một mặc khải được chứng thực nhờ công cuộc nhập thể của Đức Kitô, mà các Kitô hữu nghĩ rằng ta chỉ gặp được Thiên Chúa không phải chỉ bằng cách “trốn vào sa mạc”, nhưng bằng cách chia sẻ kiếp người trong mạng lưới các quan hệ hằng ngày sao? Tình yêu nhân loại, việc mở lòng và hiến mình cho tha nhân, đối với họ, là những nơi ưu tiên để Thiên Chúa ngỏ lời và tự mặc khải.

Thế nhưng, dù không phải ai ai cũng được kêu gọi sống ẩn tu, tất cả chúng ta cần phải nhận định ý nghĩa về hấp lực của sự cô tịch, được thể hiện từ ngày đầu của Kitô giáo trong những truyền thống Đan Viện lớn, ở Phương Đông cũng như ở Phương Tây, và hoa quả của các truyền thống ấy trong đời sống các Thánh thì quá hiển nhiên đến độ không thể nào phủ nhận được. Sự cô tịch mà những nhà linh đạo lớn đã từng đồng lòng công nhận vai trò quan trọng đối với cấu trúc con người. Ôi cô tịch hồng phúc! (O Beata Solitudo!).

Nhưng, như chúng ta đã thoáng nhìn, chúng ta sẽ thấy rằng vấn đề không được đặt ra dưới dạng đối nghịch mà là bổ túc lẫn nhau. Con người là một hữu thể cô tịch và cộng đoàn, cần đến sự cô tịch và mối tương quan để tìm thấy mình và tìm thấy Thiên Chúa.

Một nhà văn như St. Exupéry đã hiểu rõ điều đó, vì ông đã ca tụng tình bạn trong tác phẩm Terre des Hommes (Vùng đất con người), và biểu dương sự cô tịch trong tác phẩm “Thành trì”. Và Cha De Foucauld, mất hút trong sa mạc, vẫn xem mình là “Người anh em của mọi người!”.

Chắc hẳn chúng ta cũng sẽ thấy rằng sự cô tịch cũng như đời sống tương quan, có những ảo ảnh và cạm bẫy riêng. Nhưng sự hàm hồ luôn khởi sự từ con người. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng: rốt cuộc, thì: tiêu chuẩn duy nhất để phân đỊnh vẫn mãi mãi là phẩm chất của tình yêu. Các quan hệ cũng như sự cô tịch là để phục vụ cho con người, và cho con người biết học tập yêu thương. “Tình yêu và bác ái hiện diện ở đâu, thì Thiên Chúa hiện diện ở đấy!”.

Hai con đường, đường cô tịch và đường tương quan, chỉ có thể đi vượt qua giới hạn nội tại của mình khi đón nhận sự Viên Mãn của Chúa.

Đối với một tín hữu, sự cô tịch tiên vàn không phải là một nơi; mà là một phẩm chất của cõi lòng. Và sự cô tịch không bao giờ là cô lập, hay thoát ly, hay chạy trốn, mà là một sự chú tâm mới; đối với một Đấng Hiện Diện đang cư ngụ cả trong sự cô tịch của sa mạc, lẫn trong các tương quan giữa người với người.”
(lại cũng trích và dịch từ tập sách “Những Nẻo Đường Thinh Lặng” của Michel Hubault)

Với người nhà Đạo, mà lại là Đạo Chúa, thì cô đơn, cô tịch và ồn ào là như thế. Còn, với người đời mà lại là thi-nhân, nhạc sĩ, thì lặng thinh/cô-tịch lại sẽ được diễn tả bằng ngôn-ngữ thi-ca nhiều nghĩa như lời ca được hát tiếp ở bên dưới:

“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”
(Phạm Duy/Lưu Trọn Lư ­– bđd)

Chuyện lặng thinh ở đời còn được diễn nghĩa bằng nhiều cách thức. Có một cách rất lạ kỳ, và ít ai dám nói hoặc kể , rất như sau:

“Về nhà thơ Anh John Milton, hôm ấy Giáo sư hỏi cả lớp:
- Ai có thể nêu hai sự kiện lớn trong cuộc đời của nhà thơ Anh John Milton?
Một nam sinh viên nhanh nhẩu phát biểu:
- Sau khi kết hôn, nhà thơ viết tác phẩm "Thiên đường đã mất".  Đến khi vợ ông mất, ông viết tác phẩm "Thiên đường trở lại".

Tương-tự như vậy, còn có truyện kể nhẹ nhưng rất thật như sau: 

“Nhân dịp nhạc sĩ Từ Công Phụng đến Melbourne trình diễn chương trình ca nhạc “50 năm Tình ca - một lần nhìn lại.  Có một người đã hỏi: 
Hình như nhạc sĩ Từ Công Phụng đã từ chối không chịu làm suôi với cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phải không??
Từ công Phụng mỉm cười rồi gật đầuNhạc sĩ cho biết lý do là vì con trai của nhạc sĩ Từ Công Phụng tên Từ Công Nghĩacòn con gái của cố nhạc sĩ Trần thiện Thanh tên Trần thị Trang.  Do đó khi đăng báo chúc mừng sẽ viết như sau:
Chúc mừng hai họ TỪ - TRẦN
và 
Chúc hai cháu NGHĨA - TRANG
Trăm Năm Hạnh Phúc
Như vậy chắc không ổn rồi.  Có mời thì cũng chẳng ma nào dám đi đám cưới!!

Theo giới khoa bảng ở nhà Đạo, thì “Lặng thinh” trong lịch sử Đạo Chúa là chuyện rất quan-trọng như Gs Diarmaid MacCulloch từng tâm tình như sau:

“Lặng thinh là thành-phần sống còn đã từng biến mất trong lịch-sử; bởi thế nên ta không có đủ lợi khí để tạo ý-nghĩa cho những gì mình biết và cũng không có chứng cớ nhãn-tiền cho những gì mình sở-đắc...

Hiện nay, đang có thứ văn-chương chữ nghĩa rất đáng kể của đạo-giáo nói về lặng thinh. Tôi tiếp cận đề-tài này từ một đời bỏ ra để giảng dạy và kiếm tìm lịch-sử đồng thời cũng nhờ vào tình huống đối đầu giáp mặt mang nhiều kết-quả đầy hoa trái với Giáo hội và đời sống tín-hữu Đức Kitô. Các mẫu mã, mô-hình của đạo-giáo là những sự việc xảy đến trong khung/mành của xã-hội loài người mà ta truy-tầm được và chúng là trung-tâm của cuộc sống đầy doanh thương, tính toán. Ngang qua nghề-nghiệp mang tính sử-học của riêng mình, tôi đã có được kinh-nghiệm bản thân biết rõ tầm quan-trọng của lặng thinh trong mọi sự-kiện cuộc sống của con người…

Tôi lại may mắn có cơ hội đối đầu với nhiều thách-thức trong cuộc sống ngay từ tuổi chớm trưởng-thành, nên có nhiều dịp thuận để vui hưởng cuộc sống như mình hằng mong ước. và nhờ thế mới có được cuộc đời khá ổn-định. Kinh-nghiệm sống trong đời đầy huyên náo đã dạy tôi biết tỉnh táo trước những mờ-ám nơi ý-nghĩa của nhiều văn bản, cùng ánh mờ nhạt nơi ý-nghĩa khác biệt nơi hành-xử của những người sống quanh tôi. Và rồi, tôi cũng tự chỉnh sửa phù hợp để nghe được tiếng lặng thinh và nhờ đó tìm ra chìa khóa cần-thiết để hiểu biết nhiều tình huống khác nhau trong đời mình…

Kinh-nghiệm bản thân nguyên khởi đã dẫn tôi đối đầu với lặng thinh trong đạo trước nhất là như một tránh né thoát khỏi mọi ràng buộc của sự thật. Đúng thế. Kinh-nghiệm đã dạy tôi biết nhận thức và vui hưởng sự thật cho thấy lặng thinh có thể mang dáng dấp tích cực cũng như tiêu-cực. Dù trên bình-diện trần-tục của cuộc sống con người, vẫn có những lời nói dối trắng trợn và nhiều sự việc không được nói ra bởi lẽ có những điều mình không nên nói. Nhưng, nhiều hơn thế, cuốn sách tôi viết đây có đầu đề là: “Lặng thinh: lịch-sử của Đạo Chúa”, sẽ đặt ra rất nhiều điều về lặng thinh với các biện-luận khác nhau, nhưng rất tích cực.

Tóm lại, niềm tin ở Đạo Chúa đặt nền-tảng trên một khẳng-định quyết bảo rằng ta có nhiều thông hiểu về ý-nghĩa của lặng thinh hơn là chỉ mỗi sự giao-dịch/tương-tác giữa con người với con người, hoặc tương-tác giữa con người với xã-hội hoặc bối cảnh phủ trùm chung quanh họ. Dù tôi và nhiều bạn đạo của tôi có tin vào Thiên Chúa hay không, dù kinh nghiệm của con người nhỏ bé hoặc nghèo nàn cách mấy đi nữa, thì ta vẫn nên đối xử với khẳng định của người tin tưởng về sự hiện-hữu của Thiên-Chúa , và vai trò của bất cứ sử-gia nào tìm hiểu về đạo-giáo cũng vẫn là các nỗ-lực trong quá khứ tạo thiện-cảm và sự thông hiểu niềm tin ấy.

Và nhiều người sẽ thấy được rằng “lặng thinh” đã và vẫn còn nằm ngay bên trong trọng-tâm kinh-nghiệm về đạo-giáo và tất cả mọi người rồi cũng mong khẳng-định rằng họ đều đã tạo hiệu-quả và ảnh-hưởng sâu sắc lên lịch-sử của Đạo Chúa.”  (X. Gs Diarmaid  MacCulloch, Silence, A Christian History, nxb Penguin 2014 tr. 2-5)

Và, đấng thánh hiền nhà Đạo khi xưa lại cũng lên tiếng về sự lăng thinh, mà rằng:

“Khi Con Chiên mở ấn thứ bảy,
thì cả bầu trời thinh lặng chừng nửa giờ...
Rồi tôi thấy bảy thiên thần
đứng chầu trước nhan Thiên Chúa…”
(Khải Huyền 8: 1)

Và ở đoạn khác, cũng thấy nói:

“Ý muốn của Thiên Chúa là
anh chị em hãy làm điều thiện
khiến những kẻ vô tri ngu xuẩn phải thinh lặng.16
Anh chị em hãy hành động như những người tự do,
không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác,
nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa.”
(1Phêrô 2: 15)

Thành ra, muốn xử sự như người tự-do-con-cái-Chúa, có lẽ điều quan trọng hơn cả bao giờ cũng là “Hãy lặng thinh như tình đã thuận”. Thuận thảo với Chúa, với nhau và với chính mình. Đó chính là điều lành, tốt đẹp chỉ người lành thánh mới biết tuân thủ.

Để minh họa chuyện này, cũng nên đi vào vùng trời gồm toàn những câu truyện để kể cho nhau nghe hầu mỗi người và mọi người có thể thụ-hưởng giây phút thư giãn, “lặng thinh”, như sau:

Ngày xưa tôi có xem một phim với tựa đề tiếng Anh là “Into the Great Silence.” (tức: Vào với lặng thinh lớn lao”.  Đây là phim tài liệu nói về đời sống trong tu viện cổ Grande Chartreuse trên vùng núi Alps ở Pháp.  Cuốn phim quay lại các sinh hoạt hằng ngày của các tu sĩ dòng kín Carthusian trong thinh lặng.

Người đạo diễn của cuốn phim đã phải sống trong tu-viện suốt nửa năm, và chỉ quay phim bằng ánh sáng thiên nhiên.  Và để tránh gây ảnh hưởng đến đời sống thinh lặng của tu sĩ, ông không được phép tiếp xúc hoặc nói chuyện với bất cứ ai trong tu viện, và không được mang theo người nào khác vào làm phim với ông.

Dĩ nhiên là, sự lặng thinh trong tu viện không phải hoàn toàn tuyệt đối.  Cũng có lúc các tu sĩ nói chuyện và phát biểu, như trong lễ hoặc khi sinh hoạt này khác, hay vào cuối tuần khi đi dạo bên ngoài.  Nhưng cốt-thiết của thực tập vẫn đặt nền tảng vào sự lặng thinh.

Cuốn phim nói đây, mở đầu bằng cảnh mùa đông, khi toàn vùng núi Alps và tu viện phủ đầy tuyết trắng, vạn vật chừng như đông đá.  Giữa thinh lặng, ngồi trong tu-viện nhìn ra khung cửa, ta như nghe được âm vang của bông tuyết rơi xuống đất.  Trong lặng thinh, ta còn cảm nhận được sự hiện-diện của những chuyện tầm thường vây quanh mình, cách sâu sắc.  Thời gian từ từ xoay quanh không gian, tiếng cây cỏ chuyển mùa và giọt nước đá tan trên cỏ, những áng mây tuôn trôi ngang đầu, bầu trời về khuya làm vụn vỡ trăng sao, tất cả đều vận hành tự nhiên trong thế giới lặng yên.

Điều ta cần nghe ngóng là lắng nghe chính mình. Cuộc sống hằng ngày của ta, so với phim, là một thế giới hoàn toàn khác lạ.  Những bận rộn chung quanh đều khiến ta không có giờ để ngồi yên, và thật sự tiếp xúc với những gì đang hiện diện.
Trên đường đi, chắc bạn chẳng bao giờ nghe được âm thanh của chiếc lá rơi rụng, hoặc đêm khuya tạt ngang cửa sổ chợt dừng lại nhìn sân trước nhà tràn ngập ánh trăng...  Thật ra, trong cuộc sống ngày, ta ít có cơ hội để sống với lặng thinh, mà theo tôi dù có đi nữa, ta có khả năng tiếp xúc được chúng khôăng?

Tôi có người quen kể rằng: có lần anh đi ăn trưa với một người bạn.  Anh chọn một quán ăn nhỏ thật vắng vẻ để hai người có dịp trò chuyện.  Trong tiệm vắng, chỉ những âm thanh hỗn tạp bình thường của chén/dĩa xục xạo trong nhà bếp, tiếng máy tính tiền và tiếng thực khách nói chuyện ở bàn bên, hoặc tiếng nhạc nhẹ êm, vv…  Bất chợt, mọi đèn đóm trong phòng ăn bị cúp!  Không gian như dừng đứng, căn phòng trở nên im ắng cách lạ kỳ.  Anh bạn tôi cho biết sự thinh lặng đây bất chợt thật khó chịu làm anh đinh tai nhức óc.

Nhưng giây phút nói ở đây khiến anh chợt dừng lại trong phút chốc và ý thức rằng, mọi ồn ào náo nhiệt trong cuộc sống giúp ta tạm khỏa lấp khoảng trống trong chính con người mình.  Có lẽ vì thế mà người ta lại tìm cách trốn tránh thinh lặng để khỏi phải đối diện với sự trống vắng ở trong ta…

Tôi nhớ một đoạn trong phim, trình chiếu cảnh trí cuối tuần ở bên ngoài, mọi người cùng ngồi với nhau bàn thảo về nghi thức xảy ra trong buổi lễ ban sáng.  Một tu sĩ phát biểu: “Không phải mục đích của hoạt động tiêu biểu là để ta tìm ra ý-nghĩa của mọi thứ, nhưng chính ta mới là người cần được tìm hiểu.” Thật ra, mọi hình thức lễ lạy chỉ cốt giúp ta quay về lại và nhận ra được chính mình, mà thôi.  Các tu sĩ, không hề vấn-nạn về lặng thinh, nhưng chính sự thinh lặng đặt câu hỏi cho ta và mọi người.

Và bạn cũng như tôi, chớ nghĩ rằng lặng thinh không có nghĩa là ta chẳng làm gì hết, nhưng khi ta có được lặng thinh vây quanh, chắc chắn sẽ tiếp xúc được các yếu tố nhiệm mầu tự nhiên đang hiện-diện quanh ta với cái nhìn sâu sắc. Vẫn cứ là nhiệm mầu. Nhưng mầu nhiệm không mang ý-nghĩa chứng-tỏ mọi việc sẽ xảy đến theo ý mình, nhưng vẫn có nghĩa vì nó trong sáng tự nhiên.  Có thể đối với ta, trời xanh mây trắng chính là mầu nhiệm; nhưng với người khác, có thể đời họ đang cần ngày mưa tươi mát, dễ chịu.  Buổi sáng bước ra ngoài, trong làn nắng ấm, tâm thân của ta ra vui khỏe; hoặc, vào lúc xế, khi ta âm thầm lê bước đôi chân từ sở làm, tâm ta đầy lo lắng, mệt mỏi.  Phài chăng, hai giây phút ấy thật sự nhiệm mầu giống như nhau?

Tôi nhớ có vị thiền sư nọ thường ca ngợi cái phút giây hiện tại đầy nhiệm mầu.  Lại có thiền-sinh kia cho biết: giây phút này, anh đang gặp nhiều khó khăn, đau khổ. Đời sống con người đâu có gì là nhiệm mầu?  Vị thiền sư nghe thế bèn đáp: cuộc sống con người tuy có lúc khó khăn, không mảy may dễ chịu, nhưng vẫn là mầu nhiệm!

Nhiệm mầu, là vì ta vẫn có điều kiện để tiếp xúc được thực tại, và thấy được những gì thật sự đang xảy ra, hầu buông bỏ mọi vướng mắc của mình thấy sự vận hành của pháp, biết được sự hiện-diện của tuệ giác và tình thương ở quanh ta. Tất cả những điều ấy, chỉ có thể như thế trong giây phút hiện-tại mà thôi!

Thênh thang như bầu trời. Hạnh phúc không là sự việc xảy ra theo ý muốn của ai khác, mà do thái độ buông xả của ta, mà thôi.  Trong tu-luyện, con người sẽ học được bài học về hạnh phúc. Và, người đạt được như thế vẫn thấy chuyện ấy xảy ra bất kể tình-huống xảy ra ở bên ngoài, dù trời  mưa gió hoặc nắng ấm. Mong sao mọi sự trong tôi và bạn không mang tính thù nghịch, nhưng vẫn yên ổn, lặng thinh và hạnh phúc. Hãy buông bỏ mọi khổ đau không cần thiết, bởi trong ta tất cả đều an vui, hạnh phúc, nhẹ nhàng.  Mỗi giây mỗi phút mặc-niệm đều như mũi tên buông thả, bay vào bầu trời cao rộng, nơi nào nó đến cũng là mục đích.  Bởi, trong thinh lặng, mọi sự đều trong sáng và tự nhiên.” (trích dẫn đôi giòng mặc-niệm từ điện-thư do bạn bè gửi, để suy-tư).

Suy tư, mặc niệm lại vẫn là điều-kiện của lặng thinh là tình đã thuận, trong phúc hạnh cuộc đời, của con người.   

Trần Ngọc Mười Hai
Và những nghĩ suy mọn hèn
vào ngày êm ả
và tươi mát.